What lips my lips have kissed, and where, and why,
I have forgotten, and what arms have lain
Under my head till morning; but the rain
Is full of ghosts tonight, that tap and sigh
Upon the glass and listen for reply,
And in my heart there stirs a quiet pain
For unremembered lads that not again
Will turn to me at midnight with a cry.
Thus in the winter stands the lonely tree,
Nor knows what birds have vanished one by one,
Yet knows its boughs more silent than before:
I cannot say what loves have come and gone.
I only know that summer sang in me
A little while, that in me sing no more.
Edna St. Vincent Millay
Bài sonnet Bốn Mươi Ba
Đôi môi nào tôi đã hôn, ở nơi nào, và vì sao,
Tôi đã quên, và cánh tay nào
tôi gối lên đến sáng; nhưng cơn mưa
chứa đầy những bóng ma đêm nay, gõ cửa thở dài
trên cửa sổ chờ nghe câu trả lời
Trong tim tôi khuấy nhẹ một nỗi đau thầm lặng
Cho những người bị lãng quên không trở lại
Tìm tôi nửa đêm với tiếng khóc
Vì thế, cái cây đứng cô đơn trong mùa đông
Không biết loài chim đã lần lượt biến mất
Tuy biết rằng cành của nó đã im lặng hơn lúc trước
Tôi không thể nói tình yêu nào đã đến rồi đi
Tôi chỉ biết cái mùa hè đã ca hát trong tôi
một ít lâu, không còn hát nữa.
Son-nét là thể thơ 14 câu, mỗi câu có 10 chữ.
Edna St. Vincent Millay, nhà thơ Hoa Kỳ, sinh ngày 22 tháng Hai, 1892
mất ngày
19 tháng Mười, 1950. Ngoài làm thơ bà còn viết kịch, và cũng là nhà
tranh đấu
cho nũ quyền. Bà là người phụ nữ thứ ba được giải Pulitzer về thơ. Thi
sĩ
Richard Wilbur quả quyết bà là người viết những bài son-nét hay nhất
trong thế
kỷ.
hì hì. Đọc mấy cái này em chẳng
hiểu mấy, chắc tại vì trình độ văn
hóa em lùn bằng ngoại hình của em nên nó thế chị Lì ạ! Mà hôm nay 23
thì ở bên
đó chị có thả cá tiễn ông táo lên trời không chị?
Thật tình chị cũng chẳng hiểu
nhà thơ nói gì dù chữ nào trong bài
thơ chị cũng biết. Ở đây chị đang chuẩn bị đón một cơn tuyết nữa, chừng
2 tấc
tuyết.
*
Bài thơ này, theo thiển ý của
GNV, làm nhớ đến bài hát của TCS,
“Môi nào có còn thơm, cho ta phơi cuộc tình…” … cả hai đều nói về
những
cuộc tình đã qua, bây giờ còn lại chỉ là nhớ nhung, nuối tiếc.
Với riêng GNV,
bài nhạc của TCS hay hơn nhiều, ấy là vì GNV này có tí kỷ niệm y chang,
“có sợi
tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi”!
Vialatte
là người đầu tiên giới thiệu Kafka tới độc giả Pháp, và nước Pháp cũng
là nước
đầu tiên biết tới Kafka.
Thành thử Pierre Assouline mới phán: Kafka vĩ đại, OK, nhưng nếu thiếu
nhà tiên
tri về ông, là Vialatte, thì sao?
Câu
phán của Vialatte về Kafka mà chẳng bảnh sao: Những tác phẩm lớn lao
của ông là
những cơn ác mộng của sự đắn đo, được viết bởi một tay tiếu lâm, hài
hước, và
bởi một ông vua ẩn dụ, ám dụ, và bằng một cái tông của một biên bản tòa
án.
Tuyệt!
Những nhận xét của TTS về hai đấng thi thánh,
thi tiên khiến chúng ta cảm thấy, Kafka có vẻ làm bạn được với Đỗ Phủ:
Đỗ
Phủ bày ra mối hệ lụy nhân sinh. Lý Bạch xa ta, muốn theo không được;
Đỗ Phủ
gần ta, muốn dứt không xong.... Nghệ thuật sáng tác của Đỗ Phủ
rất tinh tế, xảo diệu. Ông dùng hết mọi thể thơ mà không
thể thơ nào mà ông không giỏi.
Bởi thế
mà Kafka mới phán, kỹ thuật là linh hồn của văn
chương!
GNV
này cũng có tật, chưa viết đã hăm he sửa! Gấu chẳng đã từng kể chuyện,
hồi viết
cho Văn Học của NMG, ông, mỗi lần nhận được bài viết, là delete, chờ
đến ngày hôm
sau đưa báo đi in, thì mới sử dụng cái
bản “text revised” sau chót, vừa mới nhận được!
Ui
chao lại nhớ SCN: Em đăng bài
nhé, mà đừng
có sửa nữa đấy nhé!
Hách nhất là ông KT: Nè, lần
sau ông đừng phiền tôi như thế. Ông cứ viết đi viết lại, tha hồ, nhưng
khi
đã gửi
cho tôi rồi thì thôi, đừng sửa nữa!
"Vào
năm 1926 (...) tôi tưởng mình lăng-xê
một trong những ông hoàng hóm hỉnh. Hoá ra là một Ông Hoàng của Đêm Đen
[Prince
des ténèbres]."
Alexandre Vialatte, người đầu tiên dịch Kafka
ra tiếng Tây, tuyên bố cách đây 20 năm.
Kafka của
tôi là
cuốn mới ra lò của Vialatte, viết
về "le Chouka", tức Kafka trong tiếng Tiệp, tập hợp những bài viết
trước đó, thêm 1 số bài mới: Tác phẩm [của Kafka] thì độc nhất từ bao
lâu nay, ở
cái chừng mức mà nó triển khai, dưới hình thức ám dụ, của một nghệ
thuật hoàn tất,
một quan điểm siêu hình về hiện hữu, và sáng tạo ra một thế giới hoàn
toàn uyên
nguyên, không chừng mức chung với những thế giới khác"
Fri,
January 21, 2011 2:25:39 PM
From:
To:
Note:
Hồi hôm ngồi buồn dịch chơi.
Những
người gypsies* đã nói gì với Bà tôi khi bà còn nhỏ
Chiến
tranh, bệnh tật và nghèo khó khoái dùng mi làm cháu ruột
Mi
sẽ giống như con mù ngồi xem một phim câm
Mi
sẽ băm hành và luôn cả tim mi
trên
cùng một chảo nóng
Con
cái mi sẽ ngủ trong cái hòm rương cột thắt bằng dây
Chồng
mi sẽ hôn ngực mi hằng đêm như thể đó là hai bia mộ
Chưa
chi mà mấy con quạ đã rỉa lông rỉa cánh chờ mi và dân mi
Con
trai cả của mi sẽ nằm với đám ruồi bu trên miệng,
không
cười, không nhấc nổi bàn tay
Mi
sẽ ganh tị với mỗi con kiến mi gặp trong đời, và với ngay cả ngọn cỏ
dại bên
đường
Thân
mi, và linh hồn mi sẽ ngồi trên hai thềm nhà cách xa nhau mà nhai cùng
một
miếng kẹo cao su
Này
bé xinh, mi có bán thân không ? Quỷ sứ sẽ hỏi mi
Gã
chủ nhà hòm sẽ mua một món đồ chơi cho thằng cháu nội ngoại của mi
Tâm
trí mi sẽ như đang nằm trong tổ ong vò vẻ ngay cả lúc mi sắp chết
Mi
sẽ lạy xin Thượng Đế, nhưng Thượng Đế sẽ trao bảng 'cấm không được quấy
rầy'
Đừng hỏi chi thêm nữa . Ta
chỉ biết vậy thôi .
* Dân du mục, thường hay làm nghề bói toán
Tks. Many
Tks. Chúc Tết luôn, cả hai. NQT
*
MY FAITHFUL
MOTHER TONGUE
Faithful
mother tongue,
I have been serving you.
Every night,
I used to set before you little bowls of colors
so you could have your birch,
your cricket, your finch
as preserved
in my memory.
This lasted
many years.
You were my
native land; I lacked any other.
I believed
that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they
were few, twenty, ten
or not born,
as yet.
Now, I
confess my doubt.
There are
moments when it seems to me I have squandered my life.
For you are a tongue of
the debased,
of the
unreasonable, hating themselves
even more
than they hate other nations,
a tongue of
informers,
a tongue of
the confused,
ill with
their own innocence.
But without
you, who am I?
Only a
scholar in a distant country,
a success,
without fears and humiliations.
Yes, who am I without you?
Just a
philosopher, like everyone else.
I
understand, this is meant as my education:
the glory of individuality is taken
away,
Fortune spreads a red carpet
before the
sinner in a morality play
while on the
linen backdrop a magic lantern throws
images of human and divine torture.
Faithful
mother tongue,
perhaps
after all it's I who must try to save you.
So I will
continue to set before you little bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is
needed in misfortune is a little order and beauty.
Berkeley,
1968
Czeslaw
Milosz
Note: Bài
thơ vinh danh tiếng mẹ đẻ của nhà thơ Ba Lan, Czeslaw Milosz:
a tongue of the debased, of the unreasonable, hating themselves even
more than
they hate other nations,
a tongue of informers, a tongue of the confused,
ill with their own innocence:
thứ tiếng nói của đám cặn bã, ngu ngốc, cứng đầu, không cần biết lẽ
phải là gì,
thù hận lẫn nhau còn hơn thù người nước ngoài
thứ tiếng nói của tụi cớm,
của tụi lầm lạc,
phát bịnh lên vì cái ác của chúng!
Ui chao, sao cứ nghe như là ông ta đang vinh danh tiếng Mít!
*
Treatise on
Theology
Czeslaw
Milosz
Note:
Đọc bài thơ
trên, sợ quá, phải đi thêm bài này, coi như quà Tết gửi tới ‘bạn của
K’, cùng
những độc giả TV và là tín hữu Ky Tô.
NQT
…
6. IN VAIN
Either gods
are omnipotent and, judging by the world they created, not good; or
they are
good, and the world slipped from their hands, and so they are not
omnipotent.
- THE SCHOOL
OF EPICURUS
Six years
old. I felt horror at the stony order of the world.
Later on, in
vain, I sought shelter in colorful pictures of birds when I was the
round-faced
secretary of the Circle of Nature Lovers.
Charles
Darwin, a clergyman-to-be, announced with regret his theory of natural
selection, for he saw that it served the devil's theology
By
proclaiming the triumph of the strong and the defeat of the weak, which
is and
has always been the devil's program, which is why he is called the
Prince of
This World.
Everything
that creeps, runs, flies, and dies is an argument against the divinity
of man.
I turned to
anti-nature, i.e., to art, in order to build our home, along with
others, out
of the sounds of music and paint on canvas and the rhythms of speech.
Threatened
at every moment, we marked our days on a calendar of stone or of paper.
Ready to be
caught by a cold hand reaching out of the abyss to pull us down
together with
our unfinished task.
Yet we
believed that some of us had received a gift, a grace, to spite the
force of
gravity.
14. YOU WHO
WERE BORN
You who were
born this night To tear us
from the Devils might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Whoever
considers as normal the order of things in which the strong triumph,
and the
weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
So
Christianity should not pretend it looks favorably upon this world, for
it sees
at the core of it the sin of desire, or Universal Will, to use the term
introduced by the great philosopher of pessimism, Schopenhauer, who
found in
Christianity and Buddhism a common trait: compassion for the
inhabitants of
earth, this vale of tears.
Whoever
places his trust in Jesus Christ waits for His coming and the end of
this
world, when the first heaven and the first earth pass, and death is no
more.
EVENING
CHESS
The Black Queen raised high
In my father's angry hand.
Charles
Simic: The Voice at 3:00 AM
Cờ
Đêm
Nữ Hoàng Đen
được dâng lên cao
Trong bàn tay giận dữ của ông già của tớ
*
WHAT THE
GYPSIES TOLD MY GRANDMOTHER
WHILE SHE WAS STILL A YOUNG GIRL
War,
illness
and famine will make you their favorite grandchild.
You'll be like a blind
person watching a silent movie.
You'll chop
onions and pieces of your heart
into the
same hot skillet.
Your
children will sleep in a suitcase tied with a rope.
Your husband will kiss your
breasts every night
as if they
were two gravestones.
Already the
crows are grooming themselves for you and your people.
Your oldest
son will lie with flies on his lips without smiling or lifting his hand.
You'll envy
every ant you meet in your life and every roadside weed.
Your body
and soul will sit on separate stoops chewing the same piece of gum.
Little
cutie, are you for sale? the devil will say.
The undertaker will buy a toy for
your grandson.
Your mind will be a hornet's nest even on your deathbed.
You will
pray to God but God will hang a sign that He's not to be disturbed.
Question no
further, that's all I know.
Charles
Simic: The Voice at 3:00 AM
Note:
Bài thơ dễ sợ. Đọc mà không dám dịch!
*
Bác Trụ đăng
bài này nói kèm là bác không dám dịch có lẽ bác sợ làm mất cái hay của
bài thơ.
Thôi kệ mình làm người điếc không sợ súng. Dịch để có cái bác chê cho
vui kẻo
bác cứ đi chê những người nổi tiếng, lỡ hôm nào gặp người dữ dằn có
ngày người
ta đốt nhà bác. Dịch bậy bạ cho vui mà bác, chỉ là chữ nghĩa thôi, có
lợi lộc
gì đâu mà gây thù chuốc oán bác ơi. Bài này hay thật. Thảo nào người ta
chọn
Simic làm thi sĩ vinh danh Hoa Kỳ.
Những
Điều Người Du Mục Kể Cho Bà
Tôi Nghe
Khi Bà Còn Trẻ
Chiến tranh, bệnh hoạn và đói kém sẽ biến bạn thành đứa cháu cưng của
chúng.
Bạn sẽ như kẻ mù xem phim không lời.
Bạn sẽ băm củ hành và những mảnh tim của bạn
chiên cùng trong một chảo.
Đám con của bạn sẽ ngủ trong va-li bị trói cột bằng dây.
Chồng của bạn sẽ hôn lên ngực bạn hằng đêm
như hôn hai bia mộ.
Lũ quạ đã rỉa cánh dọn mình chờ bạn và đồng bào của bạn.
Thằng con cả của bạn sẽ nằm ruồi bu trên môi không nụ cười hay nhắc nổi
bàn tay
Bạn sẽ hờn ghen với tất cả mọi người bạn gặp trong đời và ngay cả cỏ
dại bên đường.
Thể xác và tâm hồn của bạn sẽ ngồi ở hai chỗ khác nhau, cùng nhai một
mảnh kẹo
cao su.
Bé cưng kia, bé có là hàng đem bán hay không? Quỉ sứ sẽ hỏi.
Người có trách nhiệm sẽ mua đồ chơi cho thằng cháu của bạn.
Tư tưởng của bạn sẽ là tổ vò vẽ ngay cả khi bạn ở trên giường hấp hối.
Bạn sẽ cầu nguyện với Chúa nhưng Chúa sẽ treo bảng Đừng quấy rầy Ta.
Đừng hỏi gì thêm, Ta chỉ biết có thế.
Tôi sợ bài thơ, vì nó u ám
quá, dù hay.
Còn chuyện sửa thơ văn dịch, cho đúng
hơn, cho hay hơn, thì cần thiết, không liên quan tới thù oán.
Bài thơ này, tôi chưa
dịch, 1 phần còn là do không hiểu được 1 câu trong đó:
You'll envy
every ant you meet in your life and every roadside weed. Bạn
sẽ hờn ghen với tất cả mọi người bạn gặp trong đời và ngay cả cỏ dại
bên đường. [HH]
Câu này dịch
là:
Mi sẽ thèm số phận của mọi con kiến mà mi gặp, hay nhánh cỏ dại bên
đường.
Tks. NQT
Bài thơ này,
và bài “Những Người Tị Nạn”, là cùng 1 air. Cùng nói về số phận tị nạn
của thế kỷ *
Những nhận xét
về dịch thuật của GNV không có nghĩa là chê, mà phải nói ngược lại: Bản
dịch chưa
tới, chưa đạt.
TV cũng đã
nhận được rất nhiều những góp ý như thế, đâu có sao? Chúng ta phải cám
ơn người
đã đọc mình, và hơn thế, còn mất công góp ý, sửa giùm những lỗi, trong
khi viết,
hay dịch.
Dịch
bậy bạ cho vui mà bác, chỉ là chữ nghĩa thôi, có lợi lộc gì đâu mà gây
thù chuốc
oán bác ơi.
HH
Đâu
có đơn
giản như vậy, nếu không, Nabokov đã không coi đó là ba bước tới địa
ngục! Nếu
không, Steiner không coi đây là phận người!
Thơ của xứ Mít
chúng ta, cho tới nay, chưa hề có mặt những nhà thơ nước ngoài. Có dịch
đấy, nhưng
nó chưa thấm vào hồn thơ Việt, theo GNV. Cả 1 tiểu luận trứ danh về thơ
của Thầy
Cuốc, không hề có một dòng về thơ thế giới, ngoài vài bài ca dao đọc
chơi, vài
bài thơ tiền chiến, và nhất là, bài thơ con cóc, mà Thầy Cuốc coi là
thần sầu!
Nhìn lại Miền
Bắc, thử coi, cái thứ thơ dịch thấm vào lòng Bắc Kít, là thứ thơ Cách
Mạng của
Nga, và đây là 1 phần, cắt nghĩa, tại làm sao họ thắng cuộc chiến.
Đâu phải tự
nhiên mà 1 ông thợ dịch sửa thơ Brodsky, biến ông thành 1 tên Bắc Kít
xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước, diệt được không biết bao nhiêu là Mỹ Ngụy!
Thơ
là phải “Bóp cổ họng
nhân loại”, “Bàn tay vô sản ghì chặt lấy yết hầu thế giới”! (1)
(1)
Những câu văn ngay từ đầu cuốn sách này đánh thức trí nhớ tôi đến một
câu thơ
của Maiakovski:
“Bàn tay vô sản ghì chặt lấy yết hầu thế giới”
Không chỉ vì và không chỉ là nhịp điệu. Mà bởi cái bên trong cốt lõi
của nó:
sức thấu thị từ một cái nhìn thơ ca, sức khai mở từ một kinh nghiệm
nghệ thuật
xuyên qua tâm trí, gây rung động từ các cấu tạo làm bộc lộ chân tướng
Với 1 nhà
thơ như Charles Simic, hay Adam Zagajiewki, là thứ thơ ngược hẳn lại.
Charles
Simic, đâu chỉ làm thơ?
Ông là nhà tiểu luận văn học, nhà bình luận chính trị lừng
danh, rất quan tâm đến số phận của con người, đâu có phải thứ người,
thứ thơ xúi người ta
giết người như mấy ông Maia.
*
Trở lại với
bài thơ “Những người tị nạn” Adam Zagajewski
Bác Trụ dịch:
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt:
Họ cứ thế nhích nhích, lê từng bước chầm chậm, rất ư chầm chậm,
về một xứ sở của chẳng đâu đâu,
về một thành phố của chẳng một ai
về một con sông của chẳng bao giờ.
Bác chỉ giúp là câu chót bản dịch của tôi sai. Cám ơn bác đã chỉ dùm.
Tôi đăng
bản dịch của bác lên cho các bạn đối chiếu.
Không dám bất kính với bác, nhưng xin thưa với bác thế này: theo như
cách HH hiểu
về bài thơ là dòng người đi lặng lẽ, mệt mỏi, đi vào một nơi xa xăm
(country of
nowhere), vắng vẻ hoang tàn vì chiến tranh (city of no one). Họ đi vô
định như
một dòng sông chảy hoài không ngừng.
Vì thế HH xin sửa như thế
này nhé:
lê chân
họ bước chậm, rất chậm
về một nơi xa xăm trong thành phố hoang tàn
như dòng sông vô định.
Em ko biết tiếng Anh nhưng có
vẻ đoạn thơ cuối ông Trụ dịch thật
khó nhai cho người đọc. Có vẻ thơ dịch của ông kén người thưởng thức ?
Đoạn
cuối bài thơ chị dịch dễ nhập tâm , dễ cảm hơn.
Phúc đáp:
Tôi không tự
ái, nhưng nhân tiện, viết thêm. NQT
@ Rong bay:
Tôi
post lại nguyên văn tiếng Anh, thì bạn mới hiểu ra vấn đề, và cùng với
nó, là cái
khó của việc dịch, chỉ có đoạn này, đúng ra, nên để cả phần tiếng Anh,
để dễ so
sánh:
Shuffling
their feet,
they move slowly, very slowly
toward the country of nowhere,
and the city of no one
on the river of never.
Trong nguyên
tác, có 1 sự lập đi lập lại, để nhấn mạnh:
[toward] the
country of nowhwere
[and] the
city of no one
[on] the
river of never
Dịch như HH,
là làm mất hết sự nhấn mạnh, nói lên thân phận của 1 kẻ tị
nạn, lê bước tới 1 xứ sở ‘nowhere’[không ở đâu đâu, không ở nơi nao-
chẳng biết
nơi nao là chốn quê nhà - sau xứ sở thì tới thành phố], 1 thành phố của
"không ai", và trên [on, "trên", không thể dịch là "như"] dòng sông của
"chẳng bao giờ", là dòng đời của họ,
dịch là "vô định",
theo tôi cũng được, nhưng chưa hết cái ý "never".
Thành thử đành giữ
nguyên, dòng
sông của chẳng bao giờ, vì nó còn làm nhớ đến từ ‘nevermore’ lừng danh
trong bài
thơ Con Quạ của Poe!
Có thể, Zagajiewki có nghĩ đến "nevermore" của Poe, khi trước tác
bài thơ này!
Đây là cái
nhịp của đoạn thơ:
No. No.
Never.
EVENING
CHESS
The Black Queen raised high
In my father's angry hand.
Charles
Simic: The Voice at 3:00 AM
Cờ
Đêm
Nữ Hoàng Đen
được dâng lên cao
Trong bàn tay giận dữ của ông già của tớ
Darkened
Chessboard
With the night already
fallen,
It's hard to see who is playing,
Who
is watching the game
At the little table in the park
Where no one says a word,
Engrossed
as they are in the next move.
Their dinners are getting cold.
The wives they
left behind
Are worrying themselves sick
While they dither here
On the lookout
for the white queen
Last seen snatching a black pawn.
Charles
Simic: Master of Disguises
Cờ Đêm
Đêm xuống rồi,
Chẳng còn nhìn
ra ai đang chơi cờ,
Ai ngồi chầu
rìa
Ở cái bàn nhỏ
ở công viên
Chẳng ai nói
một tiếng,
Tất cả đều đắm
đuối vào nước cờ tới,
Chưa phạng
ra.
Bữa ăn chiều
thì cũng đã nguội lạnh.
Mấy bà vợ bị
bỏ rơi ở phía sau
Lo lắng đến phát bịnh
Trong khi họ
ở đây, do dự
Về bước đi sắp
tới của nữ hoàng trắng
Lần chót nguời
ta nhìn thấy, bà vồ được 1 con tốt đen.
The Absent
One
Someone's
late coming home.
The lamp left for him in the window
Burns as the day breaks,
And
will burn for months after.
Our small street is dark at night.
The birdcages
are covered early.
The goldfish barely stir in their jars.
Even the porch
lights are off,
Leaving only his window lit
For moths to pay their respects
Until the weather turns cold
And the roofs are white with snow.
Charles
Simic: Master of Disguises
Kẻ vắng mặt
Một người nào
đó về nhà muộn
Ngọn đèn dành
cho người này thì được để ở cửa sổ
Cháy tới sáng.
Và sẽ cháy
nhiều tháng sau đó
Con phố nhỏ
của chúng tôi thì tối về đêm.
Những cái lồng
chim được phủ lại từ lúc còn sớm
Mấy chú cá vàng
cựa quậy tí tí trong mấy cái chậu của chúng.
Ngay cả mấy
ngọn đèn ở cổng nhà, cũng được tắt đi,
Chỉ để sáng,
1 ngọn đèn, ở cửa sổ của người đó
Để cho bầy
thiêu thân bày tỏ lòng thổn thức của chúng
Cho đến khi
tiết trời trở lạnh
Và mái nhà,
tuyết phủ trắng.
Note: Chúng
ta gặp con thiêu thân, trong bài thơ của Lưu Hiển Ba, trong bài thơ
"đường ra trận mùa này đẹp lắm" (1) và bây giờ, chúng ta gặp một bầy
thiêu thân, đi thăm viếng, tỏ lòng tri ân tới 1 kẻ vắng mặt.
Câu
cuối
theo GNV thật tuyệt. Làm nhớ
cái
gì gì, 'vòng khan tang', của nhà thơ 'đường ra trận mùa này đẹp lắm'. Cũng may
còn
tí an ủi!
(1)
RYSZARD
KRYNICKI 1943-
The history
of the twentieth century has been largely a history of mass crimes. Yet
it has
also witnessed the heroism of idealistically motivated men and women
who were
ready to offer their lives for the causes they believed sacred. This
poem
compares that faith in ideas to the urge of a moth to fly toward a
candle,
toward its destruction. By an ironic twist, in reality the poet praises
the
constant striving of people toward a dangerous goal.
Cái thế kỷ 20 quả đúng là thế kỷ của những tội ác tập thể. Tuy nhiên,
nó còn
cho thấy chủ nghĩa anh hùng, chết vì nghĩa cả, khiến đám đông rủ nhau
lao và lửa.
Bài thơ dưới đây so sánh cái niềm tin đó, với cái sự thôi thúc lao vào
ánh nến,
lao vào huỷ diệt của con thiêu thân..
I CAN'T HELP
YOU
Poor moth, I can't help you,
I can only turn out the light.
[Con thiêu thân đáng thương, ta không thể giúp mi
Ta chỉ có thể tắt ánh sáng đèn]
Translated
from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw Milosz tuyển chọn & giới thiệu
Tình cờ làm
sao, GNV vớ được bài này, cũng nói về cái vụ thiêu thân lao vào lửa, và
cũng
nói về những cái vụ tàn sát, tù đầy… của thế kỷ.
Bài thơ của LHB có vẻ như đồng nhất được cả hai hành động của ông, hy
sinh thân
mình cho nghĩa cả [tự do, dân chủ cho TQ], nhưng lại coi cái hành động
thiêu
thân lao vào lửa đó, là để ‘vẽ dáng em’, và lửa đây là lửa vĩnh hằng,
khác thứ
lửa cách mạng của đám VC/TQ!
Tuyệt!
*
The
Diction
Teacher Retires From The Theater School
Tall, shy,
dignified
in an
old-fashioned way,
She bids
farewell to students, faculty,
and looks around suspiciously.
She's sure
they'll mangle their mother tongue
ruthlessly and go unpunished.
She takes
the certificate (she'll check
for errors
later). She turns and vanishes offstage,
in the
spotlights' velvet shadows,
in silence.
We're left
alone
to twist our
tongues and lips.
Adam
Zagajewski: Eternal Enemies
Cô giáo dạy
ăn nói nghỉ dạy trường kịch nghệ
Dáng người cao, có vẻ rụt rè, e lệ, và rất ư là có phẩm cách
theo cái kiểu ngày xửa ngày xưa
Cô chào vĩnh biệt sinh
viên, nhà trường,
Và nhìn quanh có vẻ hồ nghi.
Cô chắc chắn đám sinh viên của cô sẽ nói ngọng tiếng mẹ đẻ
một cách thật là thô lỗ, mà cũng chẳng hề bị phạt.
Cô cầm tờ chứng nhận của
nhà trường
(cô sẽ coi lại những lỗi chính tả sau)
Cô quay đi, và biến mất khỏi sàn diễn,
trong những khoảng tối mầu nhung,
của ánh đèn sân khấu,
trong yên lặng.
Còn lại lũ chúng tôi,
vặn vẹo luỡi và môi.
REFUGEES
Bent under
burdens which sometimes
can be seen and sometimes can't,
they trudge
through mud or desert sands,
hunched, hungry,
silent men
in heavy jackets,
dressed for all four seasons,
old women
with crumpled faces,
clutching something-a child, the family
lamp, the last
loaf of bread?
It could be
Bosnia today,
Poland in
September '39, France
eight months later, Germany in '45,
Somalia, Afghanistan,
Egypt.
There's
always a wagon or at least a wheelbarrow
full of treasures (a quilt, a silver
cup,
the fading
scent of home),
a car out of
gas marooned in a ditch,
a horse
(soon left behind), snow, a lot of snow,
too much snow, too much sun, too much
rain,
and always
that special slouch
as if
leaning toward another, better planet,
with less ambitious generals,
less snow,
less wind, fewer cannons,
less History (alas, there's no
such planet,
just that slouch).
Shuffling
their feet,
they move
slowly, very slowly
toward the country of nowhere,
and the city of no one
on the river
of never.
Adam
Zagajewski: Without End
Những người
tị nạn
Oằn người dưới
những gánh nặng đôi khi nhìn thấy,
đôi khi không,
họ lê bước
qua bùn hay cát sa mạc
như những tên
gù, đói,
những người đàn
ông câm lặng
trong những chiếc áo bốn mùa, nặng nề,
những bà già
với bộ mặt nhàu nát,
khư khư, cố
níu, ghì chặt một cách gì đó -
một đứa bé, một ngọn đèn bàn thờ gia đình, hay mẩu
bánh cuối cùng?
Có thể là Bosnia ngày hôm
nay,
Ba Lan vào
Tháng Chín, 1939, Pháp,
8 tháng sau đó,
Đức 1945,
Somalia, Afghanistan,
Egypt.
Luôn có 1 cái
xe gooòng, hay ít ra, một cái xe cút kít,
chất đống trên đó, là hằng hà kho tàng
(chăn, mền, ly bằng bạc, và một cái mùi của nhà mình,
sao thật xa vời, mỗi lúc 1 thêm nhạt nhòa)
một cái xe hết
xăng bỏ lại tại một con mương
một con ngựa
(chẳng bao lâu để lại phía sau),
rất nhiều tuyết,
rất nhiều tuyết, rất nhiều nắng, rất nhiều mưa.
và luôn luôn,
là cái tư thế đặc biệt,
như muốn dướn tới 1 hành tinh khác, tốt đẹp hơn,
ít những
ông tướng VC đầy tham vọng,
ít tuyết,
ít gió, ít đại
bác,
ít Lịch sử hơn
(than ôi, làm đếch gì có 1 hành tinh như thế, ngoài chỉ 1 cái này)
Đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt:
Họ cứ thế nhích
nhích, lê từng bước chầm chậm, rất ư chầm chậm,
về một xứ sở
của chẳng đâu đâu,
về một thành
phố của chẳng một ai
về một con sông
của chẳng bao giờ.
Ui chao, gần
Tết mà đọc bài thơ này, thì mới thấm cái mùi nhà Mít xa vời vợi!
Hà, hà!
Hu, hu!
*
Note: Ghé
blog Hải Hà, thấy có dịch bài này, post lại ở đây, và mạo muội có ý
kiến như thế
này:
NQT tôi hay góp ý về dịch,
để mong có được 1 bản dịch hay hơn, như lần góp
ý HH về
bài thơ dịch Frost, thí dụ.
Còn cái chuyện 'chê' dịch dở, là với những đấng không biết phục thiện,
dịch dở,
dịch sai, nhưng cứ như bố người ta, dịch sai, GNV góp ý, chẳng thèm cám
ơn,
nhưng lẳng lặng sửa, hay cố tình dịch sai để nâng bi VC, thì phải chửi,
thôi.
Chửi, chứ
không chê.
Oằn người dưới gánh nặng cuộc
đời, những thứ đôi khi
ta thấy và nhiều khi không thể thấy
họ lặn lội trong bùn lầy hay sa mạc
cúi gập người, đói,
những người âm thầm trong áo khoác dày cộm nặng nề
mặc suốt bốn mùa
những bà cụ da nhăn nheo
giữ khăng khăng trong tay – một đứa bé, cái đèn di sản,
hay ổ bánh mì cuối cùng?
Cảnh tượng này có thể ở Bosnia hôm nay
hay Poland tháng chín năm 39, Pháp
tám tháng sau, Đức năm 45
Somalia, Afghanistan, Egypt.
Bao giờ cũng thấy có một cỗ xe bò, hay một chiếc xe cút kít
chất đầy gia tài (cái mền vải ghép, cái cúp bạc,
mùi hương của tổ ấm đã nhạt nhòa),
một chiếc xe hết xăng chúi vào trong rãnh
con ngựa (không mấy chốc bị bỏ lại sau lưng), tuyết, tuyết ngập ngụa
tuyết tràn trề, nắng ê hề, mưa dầm dề
và luôn luôn có một thế ngồi không lẫn vào đâu được
như thể muốn dựa vào một hành tinh khác tốt đẹp hơn
nơi các nhà đại tướng ít tham vọng hơn
ít tuyết hơn, ít gió hơn, ít hơn những viên đại bác
ít chuyện Lịch sử (ối giời, làm gì có
cái thứ hành tinh này, chỉ có thế ngồi mệt mỏi).
lê chân
họ bước chậm, rất chậm
về một nơi không có tên trên bản đồ
thành phố không người
hoài không dứt
Adam Zagajewski: Bất Tận
Bài thơ này dịch từ trang web
mục thơ mỗi ngày
của nhà văn Nguyễn Quốc Trụ. Mạo muội nha, ông này hay chê ỏng chê eo.
Ai dịch
ông cũng chê nhưng ông chê thì kệ, miễn có công dịch là tốt rồi
Còn ông
muốn sửa cho đúng cho hay thì xin cứ tự nhiên. Ông đăng bài thơ mà
không nói
gì, tôi đoán bài thơ làm ông liên tưởng đến thân phận người Việt Nam
thời chiến
tranh và hậu chiến (vượt biên).
HH
*
Note: GNV coi lại, thấy
mỗi bản dịch, có tí sai.
Bản của HH, sai, câu sau
cùng.
Và, ít Lịch sử # ít chuyện Lịch sử [viết hoa]
Bản của GNV, lầm từ
"just that slouch",
với
hành tinh, planet:
Sửa lại là:
Làm đếch gì
có hành tinh khác, mà chỉ có cái thế dướn người về nó mà thôi!
*
Update:
Đoạn cuối của bài thơ, nguyên văn:
Shuffling their feet,
they move slowly, very slowly
toward the country of nowhere,
and the city of no one
on the river of never.
Bác Trụ dịch:
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt:
Họ cứ thế nhích nhích, lê từng bước chầm chậm, rất ư chầm chậm,
về một xứ sở của chẳng đâu đâu,
về một thành phố của chẳng một ai
về một con sông của chẳng bao giờ.
Bác chỉ giúp là câu chót bản dịch của tôi sai. Cám ơn bác đã chỉ dùm.
Tôi đăng
bản dịch của bác lên cho các bạn đối chiếu.
Không dám bất kính với bác, nhưng xin thưa với bác thế này: theo như
cách HH hiểu
về bài thơ là dòng người đi lặng lẽ, mệt mỏi, đi vào một nơi xa xăm
(country of
nowhere), vắng vẻ hoang tàn vì chiến tranh (city of no one). Họ đi vô
định như
một dòng sông chảy hoài không ngừng. Vì thế HH xin sửa như thế này nhé:
lê chân
họ bước chậm, rất chậm
về một nơi xa xăm trong thành phố hoang tàn
như dòng sông vô định.
*
Phúc đáp:
Cách hiểu của HH chính xác hơn, do cái từ 'on'. Tks. NQT
Bài thơ này
làm nhớ đến Một Cõi Đi Về của TCS, nhất là câu, “Chẳng biết nơi nao là
chốn quê
nhà”.
Ui chao
Canada mùa đông này khủng khiếp quá. Có khi còn tại già quá nữa, cũng
nên.