*























Thơ mỗi ngày

No Childhood

And what was your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers.

Tuổi thơ ư, No!

Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.

Impossible Friendships

For example, with someone who no longer is,
who exists only in yellowed letters.

Or long walks beside a stream,
whose depths hold hidden 

porcelain cups-and the talks about philosophy
with a timid student or the postman. 

A passerby with proud eyes
whom you'll never know.

Friendship with this world, ever more perfect
(if not for the salty smell of blood).

The old man sipping coffee
in St.-Lazare, who reminds you of someone. 

Faces flashing by
in local trains-

the happy faces of travelers headed perhaps
for a splendid ball, or a beheading. 

And friendship with yourself
-since after all you don't know who you are.
*

Tình bạn bất khả

Thí dụ, với 1 người nào đó không còn nữa,
chỉ hiện diện ở trong những lá thư ố vàng

Hay là những cuộc tản bộ dài bên bờ suối,
Mà chiều sâu thăm thẳm,
do giấu kín biền biệt.

Ly tách bằng sành – và chát chiếc về triết,
với một em sinh viên e ấp, hay là với 1 người đưa thư.

Một khách bộ hành với cặp mắt kiêu ngạo,
Người mà bạn sẽ chẳng bao giờ biết tới.

Tình bạn với thế gian, tuyệt hảo hơn bao giờ,
(nếu không nhờ mùi máu mặn của nó).

Anh già ngồi nhấm nháp ly cà phê
ở con phố St-Lazare
làm bạn nhớ tới 1 thằng cha Gấu nào đó.

Những bộ mặt loé sáng lên,
Trong những chuyến xe lửa khu vực - 

Những bộ mặt hạnh phúc của những hành khách trên tầu,
chắc là đang hướng tới một cuộc khiêu vũ tuyệt vời,
hay là 1 vụ chặt đầu.

Và tình bạn với chính bạn -
kể từ khi bạn cũng đếch biết bạn là thằng chó nào!
*


GREAT SHIPS

This is a poem about the great ships that wandered the oceans
And groaned sometimes in deep voices, grumbling about fog and
submerged peaks,
But usually they sliced the pages of tropical seas in silence,
Divided by height, category, and class, just like our societies and hotels.
Down below poor emigrants played cards, and no one won
While on the top deck Claudel gazed at Ysé and her hair glowed.

And toasts were raised to a safe trip, to coming times,
Toasts were raised, Alsatian wine and champagne from France's finest
vineyards,
Some days were static, windless, when only the light seeped steadily,
Days when nothing happened but the horizon, which traveled with
the ship,
Days of emptiness and boredom, playing solitaire, repeating the
latest news,
Who'd been seen with whom in a tropical night's shade, embracing
beneath a peach-colored moon.

But filthy stokers tirelessly tossed coal into open flaming mouths
And everything that is now already existed then, though in condensed
form.
Our days already existed and our hearts baked in the blazing stove,
And the moment when I met you may also have existed, and my mistrust
Brittle as a faience plate, and my faith, no less frail and capricious,
And my searches for the final answer, my disappointments and discoveries.

Great ships: some sunk suddenly, arousing consciences and fear,
Gaining deathless fame, becoming stars of special bulletins.
Others went peacefully, waned without a word in provincial ports,
in dockyards,
Beneath a coat of rust, a ruddy fur of rust, a slipcover of rust, and waited
For the final transformation, the last judgment of souls and objects,
They still wait patiently, like chess players in Luxembourg Garden nudging
pieces a fraction of an inch or so.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

Những con tầu lớn

Đây là 1 bài thơ về những con tầu lớn lang thang trên biển cả
Đôi khi gầm gừ, giọng trầm, sâu; lầu bầu về sương mù, về những mỏm đá ngầm
Nhưng thường thì chúng cắt những trang biển nhiệt đới trong im lặng,
Chia thành cao thấp, thứ loại, giai cấp, y hệt như những xã hội và những khách sạn của chúng ta.
Ở tít tận đáy sâu, là những di dân nghèo khổ chơi bài lá, và chẳng ai thắng.
Trong khi ở trên đỉnh, trên boong tầu, Claudel đưa mắt nhìn Ysé và tóc nàng thì cháy rực.

Và những ly rượu thì được dâng cao, mừng cho chuyến đi an toàn tới bờ tới bến đúng hạn kỳ
Những cái ly được nâng cao, thứ rượu vang tuyệt hảo vùng Alsatian, và sâm banh thì từ những vườn nho ngon nhất nước Pháp.
Có những ngày tĩnh, không gió, chỉ có thứ ánh sáng nhẩn nha nhỉ ra, chiết ra.
Có những ngày chẳng có gì xẩy ra, ngoại trừ đường chân trời, cùng dong chơi, dung dăng dung dẻ với con tầu
Có những ngày trống rỗng, buồn ơi là buồn, chơi trò solitaire, lập lại những tin mới nhất
Ai đã được dòm thấy đang ôm ai, trong bóng đêm biển nhiệt đới, bên dưới bầu trời có trăng mầu trái đào.

Nhưng mấy tay đốt lò trông thật nhếch nhác, và chẳng thấy có tí mệt mhọc, vẫn hùng hục tống những xẻng than vào những cái miệng cháy hừng hực
Và mọi chuyện thì kể như bây giờ đều OK, ở trong cái hình dáng được nén lại như thế đó.
Những ngày tháng của chúng ta thì đều hiện hữu, OK, như thế đó, và những trái tim của chúng ta thì giống như những chiếc bánh được nướng ở trong một cái lò rực lửa.
Và cái thời khắc mà anh gặp em, thì chắc cũng đã hiện hữu, và cái sự không tin cậy của anh thì cũng bấp bênh giống như cái dĩa bằng đồ sứ, còn niềm tin của anh, hỡi ơi, thì cũng ‘vai em gầy guộc nhỏ’, và đầy những ghen tuông giận hờn, nhõng nha nhõng nhẽo, và thật là cà chớn!
Và những tìm tòi, tra vấn cho câu trả lời sau cùng, những sự không hài lòng, và những khám phá của anh.

Những con tầu lớn: có vài cái bất thình lình chìm, làm dấy lên ý thức, luơng tâm, và sự sợ hãi
Tạo được danh vọng chẳng thể nào chết, trở thành những ngôi sao của những bản tin đặc biệt
Vài cái khác trải qua cõi đời của chúng thật là bình an, cứ thế teo lại dần, không một lời, trong những bến cảng địa phương, tỉnh lỵ, trong những bến kè
Bên dưới 1 cái vỏ gỉ sắt, một cái áo nhung bằng gỉ sắt chết tiệt, một tấm vải choàng bằng gỉ sắt
Và đợi sự hóa kiếp, phán quyết sau cùng của linh hồn và sự vật.
Chúng vẫn kiên nhẫn đợi, như những cao thủ cờ tướng, tại vườn Bờ Rô, nhích nhích mấy quân cờ….
Adam Zagajewski: Eternal Enemies


*

Note: Bài thơ này có nhiều câu thần sầu, và có lẽ, bài thơ độc nhất không quá đỗi
‘nghiêm trang, luân lý giáo khoa thư’, "ướt át" hơn, so với những bài thơ tình khác, của TMT!

Tôi xa người nắng buồn trên vai
Môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi
Người xa tôi một dòng sông trắng
Dẫy núi bên kia có ngậm ngùi 

Tôi xa người hàng cây bâng khuâng
Nước dâng chiều xuống nhớ muôn trùng
Người xa tôi có ra đứng ngóng
Một cánh chim bay ở cuối rừng 

Tôi xa người như xa cơn mưa
Tóc tôi còn ướt tới bây giờ 

Nhớ tôi người có châm điếu thuốc
Nhớ tôi người có đi trong mưa. 

Người xa tôi gió cũng lặng thinh
Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình
Người như suối chảy qua rừng vắng
Cả một dòng sông đứng lại chờ

9/93

 

Câu thơ "Nhớ tôi người có đi trong mưa" làm nhớ cái cảnh GNV bỏ cái quán hẹn, khi BHD đến trễ, chờ đúng 5 phút không thấy là bỏ đi, “hoàng hạc nhất khứ đếch phục phản”! 

Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Chuyện Của Gấu.

Câu thơ ‘Nhớ tôi người có châm điếu thuốc’, thì lại làm bật ra bài thơ sau đây :

Buồn như cái hộp quẹt ở trong nhà,
Khi ai cũng bỏ hút thuốc lá!

Hai câu sau đây, mà chẳng “ướt” sao?

Buồn như cục xà bông
Khi BHD bước ra khỏi cái bồn tắm!

Sad as a Ship in a Bottle 

Sad as a matchbox in a house
Where they've stopped smoking.
Sad as a soap of a movie queen
After she steps out of the shower.
Sad as the love pill
In a pocket of a dead man.
Happy as a mouse in a rocking chair.
Happy as a pair of dentures ...
No, wait a minute! Something's wrong here!
Sad as a maybug in June.
Sad as a hotdog-eating champion
Having dinner in a fish restaurant.

Charles Simic: Master in Disguises

Buồn như 1 con tầu nằm trong 1 cái chai
[GNV thích, cảnh ngược lại!]

 Buồn như cái hộp diêm quẹt ở trong nhà
Khi ai cũng bỏ hút thuốc lá
Buồn như cục xà bông của nữ hoàng điện ảnh
Khi nàng bước ra khỏi cái vòi hoa sen
Buồn như viên Viagra
Trong túi 1 thằng cha đã ngỏm
Vui như chú chuột
Trên cái ghế lắc la lắc lư
Vui như cặp răng giả....
Ấy chết, xin lỗi, có gì lộn ở đây !
Buồn như con bọ ăn lá cây
Vào 1 ngày tháng Sáu
Buồn như anh chàng vô địch ăn hotdog
Một bữa ăn tối tại cửa hàng chuyên phục vụ món cá

Người như suối chảy qua rừng vắng
Cả một dòng sông đứng lại chờ 

Hình ảnh trên, của TMT, tất nhiên, được Christian Bobin chôm [thế là huề nhé], làm thành hai câu thần sầu:

J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies.

Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta. 

Cả 1 dòng sông đứmg lại chờ, vậy mà vưỡn « lỡ làng » !



*

Sư Phụ của Hóa Trang

Tập thơ mới nhất, 2010, gồm những bài mới thấy trên báo!

Brodsky có 1 nhận xét, nhớ đại khái, nhà thơ thứ thiệt thì tuổi tới đâu, thơ tới đó, trong khi nhà thơ Mít, như TTT phán, viết xong tuổi thanh xuân là ngỏm !
Đọc Charles Simic, càng thấy ra điều trên. Tập thơ mới nhất của ông, sâu lắng hơn, và có vẻ kiệm lời hơn, nhưng vẫn nhận ra giọng thơ têu tếu.
Tuyệt !
Bài Điếu Văn dưới đây, có trong tập thơ mới, TV post rồi, khi đọc trên The Paris Review, Spring 2010


Graveside Oration

Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.

He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap.

Điếu văn bên mồ

Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H. !]
Ghét đờn bà ngọt như mía lùi 

Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.

*
Bài này cũng thật tuyệt

Our Salvation 

What I hate are short winter days,
Cold and snowless afternoons,
The dark night in a hurry to fall
After the last school bus passes 

I dislike a woman who won't light
But one lamp in the house,
Who keeps the heat way down
And wears three sweaters and a shawl.

What drives me to despair are meals
Eaten in silence with the TV on,
The recital of the day's horrors
Followed by a grim weather report. 

It breaks my heart to go to bed
Every night in a room without heat
With the one who still has strength
To pray to God for our salvation.

Sự Cứu Chuộc Của Chúng Ta 

Tớ ghét những ngày đông,
ngắn ngũn,
cụt thun lủn.
Những buổi chiều lạnh, đếch có tuyết.
Đêm chỉ chờ,
xổng ra,
là chụp xuống,
ngay sau khi chuyến xe buýt sau cùng,
chở học sinh,
vừa đi qua. 

Tớ đếch khoái mấy mụ đàn bà,
chẳng thèm thắp đèn đóm trong nhà.
Ấy chết, xin lỗi,
chỉ 1 ngọn.
Rồi mặc ba bốn cái áo ấm,
và còn thêm chiếc khăn choàng ! 

Điều làm tớ chán nhất,
là những bữa ăn tối,
trong câm lặng,
trước màn hình.
Cái mặt vuông khốn kiếp,
[mượn chữ của ông tiên chỉ VP]
đang lèm bèm,
theo kiểu biên niên,
về những điều ghê rợn,
xẩy ra trong ngày.
Chấm dứt bằng bản tin thời tiết,
cũng khốn kiếp!

Trái tim tớ như vỡ ra,
khi kéo lê thân mình
tới cái giường.
Đêm nào thì cũng vậy.
Trong căn phòng không có máy sưởi ấm.
Với cái người vưỡn còn đủ sức lực,
để cầu nguyện Thượng Đế,
cho sự cứu chuộc của đôi ta!
*

Yves Bonnefoy :
« J’ai le désir de servir la poésie dans une société qui la méconnait »
Tớ muốn phục vụ thơ trong một xã hội đếch biết nó là cái chó gì!

One Letter Is Enough

                                    for Xia

one letter is enough
for me to transcend and face
you to speak 

as the wind blows past
the night
uses its own blood
to write a secret verse
that reminds me each
word is the last word 

the ice in your body
melts into a myth of fire
in the eyes of the executioner
fury turns to stone 

two sets of iron rails
unexpectedly overlap
moths flap toward lamp
light, an eternal sign
that traces your shadow

Translated from the Chinese by Jeffrey Yang
 

A Letter Would Be Enough

A letter would be enough
For me to surmount all
To speak with you

When the wind blew
The night with its own blood
Wrote down a secret word
To let me remember
That every word is the last one 

The ice in your body
Melted into a myth of fire
To the eyes of executioners
The anger became a stone 

Two rails suddenly overlapped
The moths flying toward the light
In the eternal gesture
Followed your shadow

Translated by Yu ZHANG

Trên đây là hai bản dịch tiếng Anh của cùng 1 bài thơ của Lưu Hiển Ba, Peace Nobel.
Bản dịch tiếng Mít của DTBT trên DM, thấy có sửa, nhưng quên không cám ơn GNV, khi phân tích sự khác biệt giữa cần và đủ, nhưng thôi, bỏ đi Tám, cho được việc nhà nước!
Mấy đấng độc giả DM, đa số là nhà văn, nhà thơ, khen um lên thơ tình LHB, và cám ơn nhặng lên DTBT, thì cũng được thôi, nhưng tất cả đều không cho thấy, hay ở chỗ nào, và tại sao lại phải cám ơn DTBT ?
[Nếu thực tò mò về LHB, cứ việc gõ Google 1 cái!]
Khó hiểu thật.

Cũng tình cờ, thơ tình LHB xuất hiện cùng lúc với Thơ Tuyển của Milosz, trên Thơ Mỗi Ngày của TV, và, chúng ta có thể lấy cái nón ông đội cho nhà thơ Li-Young-Lee đội cho LBH, cũng đặng: Trong tác phẩm của ông có 1 cái dòng mạnh của thơ Á Châu.

Bài thơ của LHB chứa trong nó, nào là huyền thoại lửa, nào là ngọn lửa vĩnh hằng, nào là ẩn dụ thiêu thân lao vào lửa, từ những ẩn dụ lại kéo thêm 1 vài ẩn dụ tiếp theo, nào là tái sinh thay vì của phượng hoàng thì là nhập thân của thiêu thân vào lửa, để vẽ dáng em, đi theo em… nhưng có lẽ chúng ta phải dịch luôn cả bài thơ của LYL, thì mới có thêm chứng liệu để mà phán, thơ tình LHB hay!
 

LI-YOUNG LEE
Li- Young Lee is an immigrant from China but he writes in English.
Yet perhaps in his work there is a strong current of Asian poetry. 

IRISES

1.
In the night, in the wind, at the edge of the rain,
I find five irises, and call them lovely.
As if a woman, once, lay by them awhile,
then woke, rose, went, the memory of hair
lingers on their sweet tongues.

I'd like to tear these petals with my teeth.
I'd like to investigate these hairy selves,
their beauty and indifference.
They hold their breath all their lives
and open, open.

2.
We are not lovers, not brother and sister,
though we drift hand in hand through a hall
thrilling and burning as thought and desire
expire, and, over this dream of life,
this life of sleep, we waken dying-
violet becoming blue, growing
black, black-all that
an iris ever prays,
when it prays,
to be.

Cầu Vồng

1

Trong đêm, trong gió, và ở mép bờ của trận mưa,
Tôi nhìn thấy năm cái cầu vồng và âu yếm gọi chúng.
Như thể một người đàn bà, đã có lần, nằm kế bên chúng một chốc lát,
rồi thức giấc, đứng dậy, rời bỏ, mùi nhớ của tóc nàng
bám mãi vào những dải cầu vồng ngọt ngào.
Tôi muốn lấy răng xé nát những cánh hoa này.
Tôi muốn tò mò tìm cho ra những bản ngã mang mùi tóc,
vẻ đẹp, sự dửng dưng của chúng.
Tất cả cuộc đời, chúng níu chặt hơi thở,
rồi mở ra, mở ra.

2

Chúng tôi không phải là người yêu, hay anh chị em,
tuy nhiên, chúng tôi cầm tay nhau suốt khách sản
run rẩy, xúc động, nóng bỏng, da diết, như thể ý nghĩ và ao ước
hết hạn, và, trên giấc mơ về cuộc đời này,
cuộc đời của giấc ngủ, chúng tôi tỉnh giấc, chết –
tím biến thành xanh,
trở thành đen, đen - tất cả những gì
một cái cầu vồng hằng cầu khẩn,
khi nó cầu khẩn,
để hiện hữu.
*

Anh T. có chắc ở đây nói đến Cầu Vồng không ? 

Iris là hoa iris, bán đầy dẫy ở đây (VN không thấy), có đủ màu sắc rất đẹp, hơi giống hoa glayeuls nhưng mềm mại hơn, cánh mỏng manh hơn, và nhụy cũng như vài cánh hoa có vân giống như lông . K thấy hay bán trong chợ nhất là loại hoa màu tím sẫm , bó chung với các loại khác như cúc daisies … để cắm trong bình .

Tongue ở đây là một phần của cánh hoa thường nằm dưới như chiếc lưỡi thè ra vậy .

Buổi tối, làm sao mà thấy cầu vồng ? Hơn nữa, at the edge of the rain là ở nơi mà mưa không rơi đến, ở bên lề một cơn mưa .

Tks. Sẽ coi lại, và sửa sau. NQT

Anh Tru oi,
K da tranh dich tho, vi dich tho kho lam . Anh Son dich tho J.P. vi tho ong ay gian di, khong the hieu sai y duoc . Con nhung nha tho khac, nhat la nhung nha tho tri thuc, y tuong cu cao xa voi voi thi van cua ho cung ... rac roi lam , dich sai cung ky` . Anh goi tho cua anh cho a2a di , tho anh cung hay vay .
 
K

Không thể không dịch, dù dịch sai.
NQT


 

Một lá thư là đủ

Một lá thư là đủ để anh siêu thoát,
để nhìn mặt em, để nói chuyện
Như gió thổi qua đêm
dùng máu của nó
viết câu thơ bí mật,
nhắc nhở anh, mỗi lời là lời cuối.

Băng giá trong cơ thể em
tan vào huyền thoại lửa.
Trong mắt tên đao phủ
giận dữ biến thành đá.

Hai chấn song sắt
Không chờ không đợi
Bỗng nhập vào nhau
Thiêu thân bay vào đèn
Ánh sáng, một dấu hiệu vĩnh hằng
Vẽ dáng em.

Cái cảnh trên đây GNV đã trải qua, những ngày Mậu Thân, và cũng “vẽ dáng cô bạn”, y chang Lưu Hiển Ba, chán thế, thấy người sang, bắt quàng làm họ:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Cõi khác

Vì không có nguyên tác, nên chúng ta không biết, LHB dùng từ gì, khi chuyển qua tiếng Anh, thành ‘transcend’, siêu thoát.
Và, vì trong bài thơ nhắc tới lời cuối, đao phủ, thành thử có thể coi đây là 1 thứ di chúc của ông cho bà vợ; ‘siêu thoát’, như thế là còn muốn nhắn nhủ, cho dù chúng có làm thịt anh, thì linh hồn anh cũng sẽ được siêu thoát, và sẽ bay bổng đến bên em, như con thiêu thần lao vào lửa, nhập vào thứ ánh sáng vĩnh hằng.
Làm sao ‘vượt thoát’ được?
Một bài thơ tuyệt vời, mọi hình ảnh, mọi ý nghĩ, mọi liên tưởng là đều "vẽ dáng em", "theo em".
*

Một người mới quen, những ngày mới tới Xứ Lạnh, rồi sau cả hai quên nhau luôn, đọc mấy cái truyện ngằn của GNV, phán, chỉ có mỗi 1 chuyện, Mậu Thân và thằng em trai tử trận, rồi cứ thế lèm bèm hoài. Sao không viết cái gì mới?
Ui chao, chỉ riêng 1 cái truyện ngắn Cõi Khác, Gấu viết đi viết lại hoài, mà vẫn chưa xong, vẫn thấy chưa được, vẫn chưa ‘expire’, làm sao viết cái khác?
Cái ấn bản đầu tiên, của Cõi Khác, đăng trên 1 số báo Văn, nhờ 1 ông bạn văn VC “thương tình’ gửi cho, bạn đọc TV thử đọc, coi nó khác với bản sau này, khi đã sửa lại, và đưa vào trong tập truyện Những ngày ở Sài Gòn, và so với bản sau đó, viết ở hải ngoại, khi gặp lại cô bạn, và luôn cả cái đuôi của nó, nhờ Christian Bodin mà có được:

1996
"J'écris depuis que tu me lis
Les mots sont en retard sur nos vies"
Christian Bodin (L'inespérée)
(Tôi viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta) 

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...

Cho người chết gật đầu thông cảm.

Kiếp Khác