|
Thơ mỗi ngày
DECEMBER
It snows
and still the derelicts
go
carrying sandwich boards-
one
proclaiming
the end of the world
the
other
the rates of a local
barbershop.
Charles
Simic: The Voice at
3.00 AM
Tháng Chạp
Trời
tuyết
vậy mà vẫn có hai đấng không
nhà
đi ở ngoài đường phố
tay cầm cái hộp giấy đựng bánh
mì sandwich
một
đấng tuyên bố tận thế rồi
đấng kia
giá biểu cắt tóc
ở một tiệm gần đó.
Charles
Simic: Tiếng nói lúc
3 giờ sáng
Note:
Bài này mở ra tập thơ
trên
*
THE
SOUL HAS MANY BRIDES
In India
I was greatly taken up
With a fly in a temple
Which gave me the distinct
feeling
It was possible, just
possible,
That we had met before.
Was it
in Mexico City?
Climbing the blood-spotted,
yellow legs
Of the crucified Christ
While his eyes grew larger
and larger.
"May God seat you on the
highest throne
Of his invisible
Kingdom,"
A blind beggar said to me in
English.
He knew what I saw.
At the
saloon where Pancho
Villa
Fired his revolvers at the
ceiling,
On the bare ass of a naked
nymph
Stepping out of a lake in a
painting,
And now shamelessly crawling
up
One of Buddha's nostrils,
Whose smile got even more
secretive,
Even more squint-eyed.
Charles Simic: The Voice @ 3.
AM
Linh hồn có
nhiều cô dâu
Ở Ấn Ðộ, tôi
làm quen
với con ruồi ở trong một ngôi đền
Và nó cho tôi
một cảm tưởng
chúng tôi đã từng gặp nhau trước đó
Ở Mexico
City chăng?
Khi bò trên chân
màu vàng có vết máu
Của Chúa Ky
Tô bị đóng đinh thập tự
Trong khi mắt
của Người mỗi lúc một mở lớn.
“Cầu Chúa đặt
ngươi ngồi trên ngôi cao
nơi Vương Quốc
vô hình của Ngài”
Một người ăn
xin mù nói với tôi bằng tiếng Anh
Anh ta biết,
tôi đã nhìn thấy gì.
Tại một quán
rượu, nơi Pancho Villa
bắn súng lục lên trần nhà
Vô đít trần
của một nàng nymph khỏa thân
Bước ra khỏi
một cái hồ trong một bức tranh,
Và lúc này,
chẳng hổ thẹn một chút nào bò vô
Một lỗ mũi Ðức Phật
Nụ cười của
Ngài mới bí ẩn,
Ăn mảnh
Lé xệch làm
sao.
Liệu
“Qua môi em tôi thở biết
bao đời” dịch sang tiếng Anh, là:
“Linh hồn tôi thì đầy… bươm bướm” [The soul has many brides]?
Theo
Nabokov, trên đời chỉ có
hai lạc thú tuyệt vời, xứng với con người nhất, là săn bướm
và viết văn.
DTL bảnh hơn Nabokov: Bạn ta
săn bướm và làm thơ “nịnh” bướm!
Câu
phán của Nabokov tuyệt lắm,
GNV không nhớ chính xác, bữa nào rảnh, lục, lọi, trình, sau.
Ẩn dụ "đội", hay "nịnh" bướm này, chỉ DN mới hiểu nổi, (1) và đã từng
áp dụng vào bạn quí
của GNV.
Xin lỗi sử dụng
tên tắt ở đây, để tránh hậu họa!
(1) Bà
gọi là, “đội dĩa”, và
cho biết, partner của nó, là “nâng bi”, thành 1 cặp.
*
[To A]
I shall miss you so much
when
I'm dead
The loveliest of smiles
The softness of your body in
our bed
My everlasting bride
Remember that when I am dead
You are forever alive in my
heart and my head
Harold Pinter
[Granta
100. Winter 2007]
Nineteen Thirty-Eight
That
was the year the Nazis
marched into Vienna,
Superman made his debut in
Action Comics,
Stalin was killing off his
fellow revolutionaries,
The first Dairy Queen opened
in Kankakee, Ill.,
As I lay in my crib peeing in
my diapers.
“You must have been a
beautiful baby,” Bing Crosby sang.
A pilot the newspapers called
Wrong Way Corrigan
Took off from New York heading for California
And landed instead in Ireland, as I
watched my mother
Take a breast out of her blue
robe and come closer.
There was a hurricane that
September causing a movie theater
At Westhampton Beach to be
lifted out to sea.
People worried the world was
about to end.
A fish believed to have been
extinct for seventy million years
Came up in a fishing net off
the coast of South
Africa.
I lay in my crib as the days
got shorter and colder,
And the first heavy snow fell
in the night.
Making everything very quiet
in my room.
I believe I heard myself cry
for a long, long time.
Một Chín Ba Tám
Đó
là năm binh đoàn Nazi tiến
vào Vienna,
Siêu nhân lần đầu xuất hiện
trên báo hình Action Comics,
Stalin làm thịt cựu chiến hữu,
Tiệm Dairy Queen khai trương
tại Kankakee, Ill.,
Còn tớ thì nằm trong máng cỏ,
tè ướt đẫm tã.
“Mi hẳn sẽ là 1 đứa bé cực
đẹp”, ca sĩ Bing Crosby thổi tớ.
Một viên phi công mấy tờ báo
gọi là “Corrigan Lầm Đường”
cất cánh tại New York, nhắm California
nhưng lại hạ cánh tại Ireland,
trong lúc tớ ngắm nghía bà mẹ
của tớ lấy cái vú đầy ứ sữa ra khỏi áo
và đưa nó xuống gần miệng tớ.
Có một trận bão khủng vào
Tháng Chín,
nhấc lên cả 1 rạp hát ở Westhampton
Beach
và thẩy xuống biển.
Dân chúng lo lắng sắp tận
thế.
Một chú cá tuyệt chủng từ 70
triệu năm về trước,
bèn xuất hiện, và lọt lưới 1
anh thuyền chài ở phía bên ngoài bờ biển Nam Phi.
Tớ nằm trong máng cỏ trong
khi ngày tháng cứ thế kéo dài lê thê,
ngày một ngắn hơn, và lạnh
hơn.
Và một trận tuyết nặng nề đầu
tiên sẽ rơi xuống đêm nay.
Làm mọi thứ trong căn phòng
của tớ càng thêm im ắng.
Và tớ nhớ là, tớ đã khóc, đã
khóc, một thời gian thật lâu.
Note: 1938 là năm
sinh của Charles
Simic
GNV, trong thế vì khai sinh, sinh năm 1838, nhưng thực ra là sinh 1937.
Hôtel La Louisiane, dans la chambre
qu'occupèrent Sartre et Beauvoir.
DANS LA RUE DES BLANCS-MANTEAUX
Ecrite par Sartre pour l'un des
personnages de Huis clos, cette chanson fut ensuite
interprétée par
Juliette Gréco
sur une musique de Joseph Kosma.
Dans la rue des Blancs-Manteaux
Ils ont élevé des tréteaux
Et mis du son dans un seau
Et c'était un échafaud
Dans la rue des Blancs-Manteaux
Dans la rue des Blancs-Manteaux
Le bourreau s'est levé tôt.
C'est qu'il avait du boulot
Faut qu'il coupe des Généraux
Des Evêques, des Amiraux,
Dans la rue des Blancs-Manteaux
Dans la rue des Blancs-Manteaux
Sont v'nues des dames comme il faut
Avec de beaux affûtiaux
Mais la tête leur f’sait défaut
Elle avait roulé de son haut
La tête avec le chapeau
Dans le ruisseau des Blancs-Manteaux.
*
Còn đây là BHD của... GNV!
Bông Hồng Đen, Tiếng Hát Của
Im Lặng.
… cette ‘’rose des ténèbres’’. Cette "musicienne du silence"?
C’est grâce à elle, et pour voir mes mots devenir pierres précieuses,
que j’ai
écrit des chansons.
Nhờ nàng, và cũng để nhìn thấy những từ ngữ của mình biến thành những
viên ngọc
quí mà tôi viết những lời ca
JEAN-PAUL SARTRE
Si vous entendez une voix qui est l’appel de l’ombre, c’est celle de
Gréco.
Nếu bạn nghe tiếng hát liêu trai, tiếng hát gọi bóng tối, thì đó là của
Gréco.
PIERRE MAC ORLAN
*
Me xừ Tướng Về Hưu của NHT, sau khi góp phần
xây dựng xong xuôi Địa Ngục ở trên
Trái Đất, trước khi về hưu, bèn ghé thăm Sài Gòn. Tâm trạng cô đơn,
không còn
việc gì để làm, miền nam làm thịt xong rồi, đói no thì đã có cô con dâu
lo,
"phúc lợi" trông vào việc nuôi heo bằng thai nhi... không khí đó,
"Tôi gục đầu lên nỗi buồn", có cái "air" văn chương miền
nam. Không phải tự nhiên mà có người nhận xét, không làm thịt được miền
nam,
không có những ông như NHT.
Khúc chót, chỉ gồm
toàn những mẩu, những đoạn, những tờ thư lả tả... của Nỗi
Buồn Chiến Tranh khiến độc giả miền nam tự hỏi, không hiểu Bảo Ninh đã
từng ghé
mắt đọc Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền?
Thiếu, là thiếu
một tiếng hát, thí dụ như của... Gréco, "sang nhất",
hoặc "hèn hơn một tị", của Khánh Ly, của Lệ Thu... , ở trong NHT. Có
thể, tiềm thức của tác giả nhận ra thiếu... một giọng hát, bèn
nhớ ra
tiếng hát thuỷ thần, tiếng hát Trương Chi...
NYRB
August 12, 1999
A.O.
Scott: Looking For
Raymond Carver
"And did you get what
you wanted from this life,
even
so?
I did.
And what did you want?
To call myself beloved, to
feel myself
beloved on the earth. "
I
fished alone that languid
autumn evening.
Fished as darkness kept
coming
on.
Experiencing exceptional loss
and
then
exceptional joy when I
brought a
silver salmon
to the boat, and dipped a net
under the fish.
Secret heart! When I looked
into
the moving water
and up at the dark outline of
the
mountains
behind the town, nothing
hinted
then
I would suffer so this
longing
to be back once more, before
I
die.
Far from everything, and far
from
myself
("Evening")
Chiều tối
Tôi câu cá 1 mình
vào buổi
chiều tối mùa thu tiều tụy đó,
Màn đêm cứ thế mò ra.
Cảm thấy,
mất mát ơi là mất mát
và rồi,
vui ơi là vui,
khi tóm được một chú cá hồi bạc,
mời chú lên thuyền
nhúng 1 cái lưới bên dưới chú.
Trái tim bí mật!
Khi tôi nhìn xuống làn nước xao
động,
nhìn lên đường viền đen đen
của rặng núi
phiá sau thành phố,
chẳng thấy gợi lên một điều gì,
và rồi
tôi mới đau đớn làm sao,
giả như sự chờ mong dài này,
lại trở lại một lần nữa,
trước khi tôi chết.
Xa cách mọi chuyện
Xa cả chính tôi.
*
At
night the salmon move
out from the river and into
town.
They avoid places with names
like Foster's Freeze, A&
W,
Smiley's
but swim close to the tract
homes on Wright Avenue
where
sometimes
in the early morning hours
you can hear them trying
doorknobs
or bumping against Cable TV
lines.
We wait up for them.
We leave our back windows
open
and call out when we hear a
splash.
Mornings are a
disappointment.
("At
Night the Salmon
Move")
Vào
đêm bầy cá hồi chuyển động
Đêm xuống là đàn cá hồi dời sông
vô thành phố.
Chúng tránh những chỗ với
những
cái tên như
Foster's
Freeze, A& W,
Smiley's
Và bơi gần đến dải nhà ở đại
lộ Wright Avenue
nơi đôi khi vào những giờ sáng sớm
bạn có thể nghe chúng loay
hoay với mấy cái núm cửa
hay đụng vô mấy sợi cáp TV.
Chúng tôi đợi chúng.
Và để mở những cánh cửa sổ
phía
sau nhà,
Và gọi chúng khi nghe có
tiếng
“quẵng” 1 cái.
Sáng bạch ra rồi thì chán
lắm.
Enright
on Carver
Raymond Carver's 'Fat' is simple but deadly,
says Anne Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó là truyện ngắn Fat, của RC
"Fat" is a great example of how little a
short story has to do in
order to work – the entry wound is so small, you could say, and the
result so
deadly. Like many of Raymond Carver's stories, this one seems very
simple. An
unnamed waitress tells her friend, Rita, about serving a very fat
customer. She
likes the guy, despite his girth. She likes serving him. Their
relationship,
though ordinary, and brief, and formal, is quite tender – and, like a
love
story, it happens in the face of opposition from the rest of the world.
The
small love the waitress feels – this moment of empathy she has for the
fat man
– becomes briefly amazing later that evening, when she is in bed with
her
boyfriend, Rudy, and the waitress is left with an uneasy, hopeful
intimation of
change.
I ask often ask students to read "Fat"
because it also seems to
talk about what a story is. A story is something told – as the waitress
tells
her friend Rita about the fat man – it is something that really needs
to be
said. But though we feel its force and resonance, it is often hard to
say what
a story means. The most we can say, perhaps, is that a short story is
about a
moment in life; and that, after this moment, we realise something has
changed.
*
And
what did you want?
To call myself beloved, to
feel myself
beloved on the earth. "
Rất
nhiều nhà văn được ngưỡng
mộ, vinh danh, mô phỏng… nhưng ít người như RC, trong bài thơ Last Fragment, gọi
họ là những người được yêu thương.
Một điều chắc chắn, RC, người viết truyện ngắn
được yêu thương nhất của thời chúng ta, trước hết, và, như ông ao ước,
là một
nhà thơ. “Tôi bắt đầu như 1 nhà thơ”, ông viết, “tác phẩm được in đầu
tiên của
tôi, là 1 tập thơ. Bởi vậy, tôi sẽ thật vui khi tấm bia mộ của tôi được
ghi như
sau: ‘Nhà thơ, và nhà viết truyện ngắn, và thỉnh thoảng, nhà viết tiểu
luận’,
theo trật tự như thế đó.”
*
19. Văn xuôi. Tản
văn.
Anh thấy gì ở đó chứ? Xuôi nghĩa là thuận chiều, không nghịch lại. Văn
xuôi là
văn thuận chiều. Tự trong hành vi của anh khi viết đã là tự thỏa thuận.
Không
thể khác. Anh phá phách trong sự thỏa thuận.
Tản văn. Nhưng chữ tản này mới thật đúng. Tản là ly tan. Tản văn là ly
tan. Đó
là ảnh tượng của thế giới ngày nay. Cái thế giới của ly tan. Anh ngồi
xuống viết,
anh bắt đầu khởi cuộc sự ly tan. Và anh cầm bút viết… Anh hãy dòm lại
xem?
TTT
Carver, ngược lại,
coi câu của Pound như là 1 thứ kinh nhật tụng:
“Thơ, ít ra thì cũng
phải cố viết cho thật bảnh như là văn xuôi”!
"In the
anthology," Carver recalls, "there was serious talk about 'modernism'
in literature, and the role played in advancing modernism by a man
bearing the
strange name of Ezra Pound. Some of his poems, letters and lists of
rules-the
do's and don'ts for writing-had been included in the anthology." Among
the
most consequential of Pound's rules was that poetry should be at least
as well
written as prose, a piece of wisdom Carver seems to have taken to
heart,
whether or not he encountered it in the pages of The Little Review
Anthology. Most
of Carver's poetry is in fact indistinguishable from prose, and not
always very
well-written prose at that:
I waded,
deepening, into the dark
water.
Evening, and the
push
and swirl of the
river as it closed
around my legs and held on.
Young grilse broke water.
Parr darted one
way, smolt
another.
Gravel turned
under my boots as
I edged out.
Watched by the
furious eyes of
king salmon.
Their immense
heads turned
slowly,
eyes burning with
fury, as they
hung
in the deep
current.
("The
River")
Lines like these
are indeed "artless," but not in an especially complimentary sense.
They are recognizable as verse only in their habit of lingering on
images
("There was discussion and analysis of poetry movements [in The Little
Review Anthology]; imagism, I remember, was one of those movements"),
and
in the unevenness of the right-hand margin. Some lines are end-stopped
by
punctuation marks, others break against the flow of the syntax, but
there seems
to be no consistent logic, either semantic or metrical, behind the line
breaks.
Carver had virtually no interest in rhyme or meter, and not much more
in the
other musical or rhythmic aspects of poetry -or even in its visual
aspects,
beyond the cascade of broken lines arrayed in variable stanzas (or,
more
accurately, verse paragraphs) down the page. "I hate tricks," he once
wrote, and while he meant the formal experimentation fashionable among
fiction
writers in the 1970s, the evidence of his poetry suggests that for him
"tricks" included figurative language, allusion, elevated diction,
and anything else that might divert his words from the task of
describing, with
maximal fidelity and minimal fuss, the world as it is.
14.12.2010
@ Subway: It’s too cold and it’s free!
Trời lạnh quá, -25 độ, và
bức
hình chụp lấy liền
thì khỏi phải trả tiền!
DECEMBER
It snows
and still the derelicts
go
carrying sandwich boards-
one
proclaiming
the end of the world
the
other
the rates of a local
barbershop.
Charles
Simic: The Voice at
3.00 AM
Tháng Chạp
Trời
tuyết
vậy mà vẫn có hai đấng không
nhà
đi ở ngoài đường phố
tay cầm cái hộp giấy đựng bánh
mì sandwich
một
đấng tuyên bố tận thế rồi
đấng kia
giá biểu cắt tóc
ở một tiệm gần đó.
Charles
Simic: Tiếng nói lúc
3 giờ sáng
Note:
Bài này mở ra tập thơ
trên
*
VOA: Quay sang "Khúc Thụy Du"
xin
anh cho biết là anh sáng tác bài thơ trong trường hợp nào?
Du Tử Lê: Bài "Khúc Thụy Du"
tôi
viết vào năm 1968, khoảng thời gian vừa xảy ra cái tết Mậu Thân. Hồi đó
tôi làm
phóng viên chiến trường, được cử đi tường thuật về một trận đánh mà tôi
còn nhớ
là ở trên đường ra Quang Trung. Khi tôi đi như vậy thì còn giới nghiêm,
dọc đường
gần như không có người. Tôi thấy những xác chết, những cánh tay, những
phần
thân thể bị văng lủng lẳng trên các dây điện. Tôi cũng nhìn thấy những
con chó
hoang vì chủ đã bỏ đi lánh nạn gậm những khúc xương người. Tôi bị chấn
động trước
cảnh tượng này và làm ra bài thơ. Khi về một người bạn của tôi ngày đó,
anh
Trần Phong Giao, làm tờ báo Văn, làm một số báo sau biến cố tết Mậu
Thân, hỏi
xin bài. Tôi đưa bài thơ đó cho anh. Tôi muốn nói "Khúc Thụy Du" là
một bài thơ mới về chiến tranh. Nó hoàn toàn không phải là một bài thơ
tình.
Tình yêu trong "Khúc Thụy Du" của tôi chỉ là một điểm xuyết thôi. Tôi
đặt vấn đề là trong một cuộc chiến tranh như vậy, chết chóc như vậy thì
tình
yêu nó sẽ như thế nào, nó sẽ thảm hại ra làm sao, và cuối cùng vẫn là
định mệnh
con người, cuộc sống của con người nó hoàn toàn vô nghĩa, nên bài thơ
mới mở
đầu bằng câu: "hãy nói về cuộc đời khi tôi không còn nữa." Nhưng năm
1983 khi anh Anh Bằng mua được cuốn thơ đó, lại chọn ra, tôi nói rõ,
anh ấy
chọn ra những câu thơ nói về tình yêu chứ không phải là những câu thơ
nói về
chiến tranh, mặc dù những câu thơ nói về tình yêu chỉ là 1/10 của bài
thơ đó
Bài thơ
Khúc Thụy Du, nếu không
có những phát giác mới về nó, qua những dòng tâm sự trên đây, thì chúng
ta cũng
chỉ xếp nó vào “cũng” 1 dòng thơ ăn mày ăn xin tình yêu, sự thương hại,
của 1 đấng
đàn ông bị người yêu “bye bye, sang ngang, sang sông, lên xe hoa, theo
bước về
nhà ai…” vốn thường gặp trong thơ DTL, thí dụ, hai câu, “em đi áo mỏng
mềm lưng
phố/có động lòng thương kẻ cuối đường”, Gấu này đã từng gặp đúng cái
cảnh như
trên, và hiểu ra, nhà thơ làm hai câu thơ, vì biết rằng, thằng bạn của
anh sẽ có
ngày cần tới nó!
Tuy
nhiên, ngay cả khi chấp
nhận cùng 1 dòng như thế, thì người đọc thơ, kẻ nghe nhạc phổ thơ vẫn
cảm thấy,
bài thơ hình như quá thê luơng, và không chỉ nói về tình yêu, y hệt bài
Tình Nhớ,
mà nhà phê bình DT đã có lần phát bực, Tình Nhớ mà liên can gì tới phản
chiến,
và chúng ta cũng có thể mô phỏng ông, và phán, KTD thì liên can gì tới
Mậu Thân.
Vậy mà cả hai đều được sáng tác từ những hình ảnh Mậu Thân, của hai kẻ,
một trốn
lính, và 1, không trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến.
Những
phát giác trên đây, có
gì tương tự với Kinh Cầu của
Akhmatova.
Một bài thơ than khóc cho số phận cá nhân, của 1 bà mẹ có con bị bắt,
trở thành
biểu tượng cho mọi bà mẹ đau khổ vì 1 chế độ độc tài.
Còn một
bản nhạc nữa, cũng từ
Mậu Thân mà ra, nhưng được viết trực tiếp từ những kẻ tham dự cuộc
chiến, và có
lần GNV đã coi nó, chẳng thua gì Kinh
Cầu, là Rừng Lá Thấp
Những
phát giác trên đây, có
gì tương tự với Kinh Cầu của
Akhmatova.
Một bài thơ than khóc cho số phận cá nhân, của 1 bà mẹ có con bị bắt,
trở thành
biểu tượng cho mọi bà mẹ đau khổ vì chế độ độc tài
*
Trước
khi “Một ngày” xuất hiện, Akh. đã đọc nó, qua Kopelev, bạn của cả hai.
“Hai
trăm triệu
người Nga phải đọc cuốn này”, bà nói với những người quen biết. Trong
lần gặp gỡ
liền sau khi cuốn sách xuất hiện, bà nói với Solz:
“Anh có biết, chỉ
trong vòng
1 tháng anh là 1 người nổi tiếng nhất trên toàn cầu?”
“Tôi biết, nhưng
nó không
kéo dài lâu đâu”.
“Liệu anh chịu nổi danh vọng?”
"Thần kinh tôi cứng lắm, tôi chịu nổi những trại tù của Stalin”.
“Pasternak chịu
không nổi. Thật khó chịu nổi danh vọng, nhất là khi nó đến muộn”
Mặc dù
kính trọng lẫn
nhau, cuộc gặp gỡ không ngon cơm. Solz có trình ra một số thơ của ông,
và để đáp
lại, Akh đưa ông đọc Kinh Cầu.
Chàng thanh niên 43 tuổi, với cuốn tiểu thuyết đầu
tay, chỉ qua 1 đêm, trở thành nổi tiếng, sau đó nói
với
Kopelev:
"Một
bài thơ tốt, tất nhiên. Đẹp.
Nhưng nói cho cùng, cả một quốc gia đau khổ, hàng chục triệu
con người,
còn đây là 1 bài thơ về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con
trai… Tôi
nói với bà là bổn phận của một thi sĩ Nga là viết về đau khổ của nước
Nga,
vượt lên đau
khổ riêng tư, viết về nỗi đau của cả nước…”
Nhưng
chính là 1 nỗi đau cá
nhân, riêng tư, nhưng "đau cho tới nơi, tới bến", thì lại bật ra nỗi
đau
của những
nỗi đau, của tất cả những nỗi đau!
Bài thơ
KTD của DTL, được
viết ra, theo “cách” đau đó. Mậu Thân, chàng lên đường làm nhiệm vụ,
như là 1
gã phóng viên Tâm Lý Chiến, nhìn thấy người chết, chàng đau quá, và
càng đau
bao nhiêu, chàng càng rút sâu vào tình yêu bấy nhiêu, và bật ra KTD!
Đây là
điều mấy ông thực sự cầm súng, mà “không
thực sự cầm
cây viết”, không hiểu được!
Trong
chương Bearing the
Burden of Witness: Requiem, tác giả
cuốn "Chữ Đuổi Thần Chết Chạy Có Cờ", viết:
Kinh Cầu được sinh ra từ một
nỗi đau riêng, và từ nỗi đau chung [tạm dịch: Requiem was born of an
event that was personally shattering and at the same time horrifically
common]:
cú bị bắt và có thể bị giết, chẳng cần luật pháp, của 1 nguời thân
trong gia đình.
Như thế, nó là 1 tác phẩm hai chiều kích, cá nhân và công chúng, vừa
là một bài thơ trữ tình, vừa một bài sử thi.
Làm sao cân bằng được cả hai chiều
kích, đó là thiên tài thi ca của Akh.
Giả như
DTL đừng bỏ đi cái phần
cả Miền Nam
đau khổ vì cú Mậu Thân, và chuyển nó vào thơ, làm cân bằng KTD, thì có
lẽ bài
thơ của anh còn bảnh hơn thế nhiều!
Phần số
chăng?
Tài năng chăng?
No Star
No! [Không sao hiểu!]
Trong
cuốn "Chữ Đuổi
Thần Chết" có 1 giai thoại thật thú vị liên quan tới Dr
Zhivago: Bị sức ép của nhà nước, Pasternak phải gửi “mail” chính
thức cho nhà xb ở Ý, ra lệnh ngưng in ấn, nhưng bằng 1 account riêng,
ông nhắn,
in lẹ lên; trước khi ngỏm, tớ chỉ mong được nhìn thấy nó!
Điều cả
hai Tình Nhớ và KTD
không làm được, cả hai đều thiếu cái chiều kích sử thi, hay nói mẹ nó
ra, đều
thiếu nỗi đau của cả nước Miền Nam, là những câu sau đây, thí dụ:
Sao không hát cho những bà mẹ già…
Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống chiều qua?
Cả hai
ông TCS, 'xua' rồi, DTL,
đều chưa từng giáp mặt Thần Chết, và đuổi nó chạy có cờ!
*
Poem Without
a Hero
A Triptych
1940-1962
Thay vì 1 lời tựa
Một vài người thì không còn nữa,
và những người khác thì đã đi xa.
Dòng
thơ đầu đến với tôi tại
căn nhà The House on the Fontanka, vào đêm 27 Tháng Chạp 1940, sau khi
gửi 1 mẩu
nhỏ (“Bạn từ chẳng đâu đâu mò tới Nga”, “You came to Russia out of
nowhere”),
như là khúc dạo, của mùa thu năm đó.
Tôi
vờ nó. Tôi cũng chẳng hề mong đợi nó, vào cái đêm lạnh lẽo,
tối tăm của Mùa Đông Leningrad
cuối cùng của tôi.
Sự
xuất hiện của nó thì đã có vài dấu hiệu tạp nhạp, vô nghĩa trước đó,
nhưng khó
mà coi đây là những điềm triệu.
Đêm
hôm đó, tôi viết ra được hai đoạn của phần đầu (“1913”), và
“Dedication”. Vào đầu tháng Giêng, kinh
ngạc đến sững sờ,
tôi viết ra được “Flip Side”, và ở Tashkent, (trong hai cú đột phát, in
two
bursts), tôi viết “Epilogue”, và nó trở thành phần thứ ba của bài thơ,
và làm vài
nét gia giảm, đưa vào hai phần đầu.
Tôi dâng
tặng bài thơ này tới hồi tưởng của hai người nghe bài thơ đầu tiên -
bạn tôi và
đồng hành, my friends and fellow - những công dân đã tàn tạ, perish,
tại
Leningrad, trong thời gian thành phố bị vây hãm.
Tôi
nghe ra giọng nói của họ, và nhớ, remember, tới họ, khi tôi cao giọng
đọc bài
thơ, và với riêng tôi, lần đọc chung bí mật đó, this secret choir, đã
trở thành
một minh chứng hoài hoài, a lasting justification, của tác phẩm.
April
8, 1943
Những
dư luận lèo nhèo,
rumors, mới đây, cũng đã đến tai tôi, liên quan tới những dẫn giải sai
lạc, và
phi lý, về “Poem Without a Hero”. Một vài người còn đề nghị, advise,
làm sao
cho bài thơ dễ hiểu hơn.
Chuyện đó thì tôi chịu thua!
Bài thơ không chứa đựng bất cứ
một cái nghĩa thứ ba, thứ bẩy, hay thứ hai mươi chín.
Tôi sẽ chẳng bao giờ thay đổi,
và cũng chẳng hề giải thích, explain, nó.
“Cái gì tôi đã viết, tôi đã
viết”
“What I have written, I have
written.”
November
1944
Leningrad
Akhmatova
*
Bài thơ
sau đây, được viết
ra, từ Mậu Thân, đúng hơn, từ… 1 chiếc dép râu của 1 anh VC, trong trận
đánh
Đài Phát Thanh, Sài Gòn, của GNV.
Một, trong dúm thơ Gấu có
được, nhờ gặp lại cô bạn, nơi xứ người ngay những ngày mới qua.
Gửi cho một đấng học trò
học tiếng Anh, còn kẹt ở Trại, thơ bị ngâm đâu cả tháng, mới cho nhận!
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà
nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt
lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh
ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng
cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày
tháng đó
Chạy xe như điên trên đường
phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng
những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi
chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi
về...
Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối
(2)
(1)...
that lonely halfway
house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm
Tuyền
|
|