*

























Thơ mỗi ngày

Thơ mỗi ngày

VOA: Thưa anh, từ năm 1975 đến nay ở hải ngoại thì sinh hoạt văn thơ khó có thể so với thời trước năm 1975 ở quê nhà. Vậy anh nghĩ gì về những dòng thơ hải ngoại hiện nay, và nó có còn là môi trường để cho các nhạc sỹ phổ nhạc nhiều như xưa nữa hay không? 

Du Tử Lê: Câu hỏi rất hay. Thưa chị, bằng cái cảm nhận của tôi, nghĩa là hoàn toàn chủ quan, tôi cho rằng lúc đầu tất cả những người viết văn, làm thơ của chúng ta ở quê người thì họ còn bị chấn động bởi cái tan tác, bởi cái đứt đoạn với tổ quốc, với quê hương. Tôi muốn nói đến những người tỵ nạn, những người vượt biên, những người di tản. Trong giai đoạn khoảng từ 5 đến 10 năm đầu, ảnh hưởng của nó còn lớn. Khi tôi nói ảnh hưởng lớn thì tôi muốn nói cái xúc động hay rung động nó có thật, nhưng từ khoảng năm 85 trở đi, đời sống người Việt của chúng ta ở quê người bắt đầu ổn định, đi vào nền nếp. Và chị cũng hiểu là đời sống ở Hoa Kỳ là một đời sống rất là khắc nghiệt và lạnh lùng, cho nên người ta chỉ có đủ thời gian, đủ lo nghĩ cho ngôi nhà chúng ta ở, cho những cái bills (hóa đơn) mà chúng ta phải trả. Và những rung động tình cảm, những rung động thành thật thì tôi nghĩ là nó không có. Cho nên mặc dù người ta vẫn làm thơ, vẫn viết văn nhưng những cái rung động thật thì nó gần như đã phai nhạt, nếu không muốn nói là nó giả tạo. Đó là lý do mà rất nhiều người làm thơ, viết văn ở thế hệ của chúng tôi đã không còn viết nữa. Cái thế hệ trẻ thì họ đông hơn, nhưng như tôi đã nói, với một bối cảnh như vậy thì nó không còn thích hợp cho văn chương nói chung, và cho thi ca nói riêng.
VOA

Thú thực, cái câu trả lời của ‘bạn ta’ cực nhảm. Chứng cớ hiển nhiên, là nhà thơ Charles Simic, Adam Zagajewski, thí dụ. Mấy ông này cũng dân bỏ chạy quê hương, qua Mẽo cũng mấy chục năm, và bây giờ vẫn làm thơ, thơ vẫn hay. Họ cũng có đủ những vấn nạn, về 1 nước Mẽo lạnh lùng khắc nghiệt, chẳc hẳn thế.

Thế thì tại sao?

Theo GNV, vấn đề này, là do nhà thơ Mít nghèo nàn cảm xúc, thiếu sự biết ơn, dốt nát, lười biếng, không làm sao nhập vào được những vấn đề đang đẻ ra thơ ở bất cứ 1 xứ sở nào, không chỉ ở Mẽo.
Cái lý do rất nhiều người ở thế hệ DTL không làm thơ viết văn được nữa, còn nằm ngay ở trong thời gian khi còn viết được, nghĩa là, còn trẻ [nhà văn nhà thơ Mít toàn thứ chết non, chết trẻ, TTT đã từng nhận xét], và đẻ ra toàn 1 thứ thơ ca, văn chương cần đến xúc động, thứ văn chương ăn mày nước mắt, ăn xin tình cảm của độc giả nữa!

Chỉ một khi cảm xúc của bạn vượt lên được những xúc động vị kỷ, vượt ra khỏi cái vòng tay, của chỉ hai người, thì mới có thơ văn thứ ra hồn , có hoài hoài được!
Sợ hấp hối, vẫn có 1 bài thơ còn đang làm dở ở trong túi!
Note: Ý này mượn TMT. Cô Tú vẫn còn làm thơ đấy, bạn DTL ơi! Và đâu chỉ 1 cô Tú?
Trong thơ TMT, không chỉ có hai người, mà còn có nhân loại, có nỗi đau của người khác, và, đôi lúc, giọng thơ quá chân thật, khiến có kẻ phán, bà này làm thơ theo kiểu luân lý giáo khoa thư, là thế. Nhưng, ở vào những giây phút bất thình lình, thơ, thứ tuyệt hảo, thứ chỉ "trao cho thi sĩ", bật ra!

*

Charles Simic, sinh năm 1938, chắc cũng tuổi DTL, là 1 trong những nhà thơ được kính trọng và yêu mến nhất trong những nhà thơ Mẽo đương thời. Ông đã từng đoạt giải thưởng Pulitzer, 1990, cho cuốn thơ "The World Doesn't End: Prose Poems", [Thế giới đếch chịu ngưng, thơ cũng thế], học bổng Mac Arthur, giải thưởng Wallace Stevens Award trong số những giải thưởng khác.
Từ 2007, là nhà thơ nhà của nước Mẽo, the Poet Laureate, thứ 15.
Ông đã cho xb hơn 60 tác phẩm

Trên TV cũng có tí thơ của ông, và đang chuyển ngữ bài phỏng vấn được đăng trên báo Serbian, “Views”, thực hiện vào Tháng Tám 1991, ngay sau khi cuộc chiến tại cựu Yugoslavia bùng nổ.
Nay nhân cú phỏng vấn bạn ta của VOA, dịch tiếp, cũng là 1 cách giải thích, tại làm sao mà “người ta” thì làm thơ viết văn được, mà Mít thì tịt ngòi! 

Ông tới Mẽo khi còn là 1 đứa con nít. Ông bật mí cho biết cái mánh hội nhập nó ra làm sao.

Phiến diện mà nói, tôi hội nhập cũng khá nhanh. Tiếng Anh cháo húp quanh, nhờ vậy mà đọc sách, có thêm bạn, lậm sâu thêm vô xã hội mới, văn hóa phổ thông... Cũng mất đâu chừng hai, ba năm. Cái còn lại thấm từ từ khi sống cùng 1 cái đời như người đương thời. Tôi vô quân đội, rồi thì Cuộc Chiến Mít [như ông Gấu nói], rồi thì thập niên 1960 etc… 40 năm dòng dã tại xứ sở này, và tôi cảm thấy hoàn toàn ở nhà. 

Ông nhận được bố cu giải thưởng, kể cả Pulitzer. Nhiều như thế có ảnh hưởng gì tới ông?

Ảnh hưởng khỉ gì. Thơ của tôi bán bảnh hơn nhiều. Chúng xâm nhập nhiều trường trung học qua những tuyển tập. Mọi người nghĩ, thằng cha thi sĩ này rất láu cá. Thằng chả khôn lắm! Không, tôi không phải như vậy. Nói 1 cách rốt ráo, thì đúng như… châm ngôn: “Mọi phép lạ chỉ kéo dài được 3 bữa” 

Tới một mức độ nào, ở Mẽo, nếu nói về cái sự thăng bằng giữa 1 bên là những nguyên lý vật chất, và 1 bên là những nguyên lý về tinh thần?

Chẳng mắc mớ gì hai món đó, nói rõ hơn, chúng không liên hệ với nhau. Mẽo không phải là 1 xứ sở; nó là 1 đại lục được cư ngụ bởi chồng chất những truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng, một nơi chốn đầy những mâu thuẫn, ngược ngạo. Cái mâu thuẫn, ngược ngạo nhất, theo tôi, là chúng tôi bằng 1 cách nào đó, cứ sống với nhau hoài hoài như thế, nói như ông VC nào đó, cầm tay nhau đi dưới bảng hiệu Mẽo quốc! Và đó là cái viễn ảnh hợp nhất độc nhất. Một lý tưởng về 1 dân tộc, thống nhất và khác biệt. 


**

*

Anna Akhmatova qua nét vẽ của
David Levine, NYRB.

Được chụp hình, được họa nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn nghiêng, chỉ cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.
The word that causes death's defeat.
Cái Từ Khiến Thần Chết Cũng Phải Bỏ Chạy.

Cuốn thơ của Brodsky, GNV mua lâu rồi, ở 1 tiệm sách cũ.
Mua, và không có khi nào nghĩ, sẽ có ngày đọc được nó, y hệt hồi mới lớn, tiếng Tây ăn đong vậy mà tậu gần như đủ tủ sách Nửa Đêm, những cuốn của Lukacs, như Lịch sử và Ý thức giai cấp, hay Lý thuyết tiểu thuyết. TPG có lần thấy GNV cầm cuốn của Lukacs, hất hàm phán, ông mua thứ này để nhát ma, hay nhát người, hay để thờ!
[Đây là cường điệu, nhưng ý của nó thì đúng như vậy!]

Còn ông Mít Butor, cũng có lần rất ư là dè bỉu, khi GNV đề nghị dịch từ “mauvaise conscience”, ý thức hư ngụy [vẫn còn nhớ!], trong bài diễn văn Nobel văn chương của St John Perse, do ông ta dịch, do GNV order, cho trang VHNT do GNV phụ trách, trên tờ Tiền Tuyến.
Phải đến già, GNV mới nhớ ra cặp mắt khinh thị của bạn quí!
Hồi đó, mê bạn, quí hay không quí, đều mê quá, không nhận ra!
Còn cuốn "Chữ đuổi Thần Chết chạy có cờ", mới tậu!
Quà Noel của GNV tặng GNV!
Sách bìa cứng. Xót quá!

Đọc loáng thoáng, vớ được 1 đoạn cũng thật thú.
Mặc dù Akhmatova, khi viết Kinh Cầu, khác hẳn Solz, khi viết Gulag, một bên đặt mình vào vị trí chứng nhân, một bên, chỉ là thảm kịch cá nhân, gia đình, theo nghĩa, bà chỉ là chứng nhân như là bà mẹ đối với đứa con của mình, và từ đó, trở thành biểu tượng bà mẹ Nga với những đau khổ, như bà đã đau khổ.
Và khi Một ngày của Solz được xb, Akhmatova “mừng rơn”, vậy là Kinh Cầu cũng có cơ may ra mắt độc giả.
Nhưng Một ngày thì OK, Kinh Cầu thì never.
Không chỉ Kinh Cầu, Requiem, trọn bài Poem Without a Hero cũng không luôn, chỉ có những trích đoạn được xb. Trong nhật ký [notebook], năm 1962, bà “tếu tếu” ghi lại những lý do của sự cấm đoán này:

Tựa đề cho bài thơ Triptych [một cái tít khác của bài Poem Without a Hero]:
Bị cấm đoán, forbidden, by the censor, bởi kiểm duyệt.
Bị dục bỏ, rejected, bởi: 13 tờ báo.
Không chấp thuận, not accepted, bởi 7 biên tập viên của nhà xb, editor.
Và, sau khi đọc lại, upon mature reflection, chính tácgiả vứt vô thùng rác, the author herself renounced it! 

Trong tất cả những gì được viết về Akhmatova, ngắn gọn nhất, tuyệt nhất, theo Gấu, là bài của Brodsky, đề tựa tập thơ của Bà.
TV thể nào cũng dịch bài này gửi tới độc giả.
Phải đọc nó, thì mới nhìn rõ ra nền văn học "ai điếu" của Mít hải ngoại, ở giai đoạn đầu của nó, với những nhà văn “hàng đầu”, trong cái việc bỏ chạy!

Đọc lời Tựa, của cuốn "Chữ Đuổi Thần Chết Chạy Có Cờ", mới thấm thêm ra 1 điều về cái chuyện dịch văn, với việc dạy ngoại ngữ, như anh Tẩy mũi tẹt vỗ ngực tự hào, nó khác nhau trời biển như thế nào.
Trong lời Tựa, tác giả cuốn sách GNV mới tậu phán:

Ui chao bao nhiêu sách, bao nhiêu ‘lèm bèm’ về nữ thần thi ca Nga rồi, hà cớ sao còn thêm cuốn này?
Ấy là vì cuốn này, dù dầy cộm, như thế, là chỉ trình ra, một cách đọc khác, không phải toàn cõi thơ, mà chỉ một bài thơ, Poem Without a Hero, của bà.
Ui chao, giả như sau này, hậu thế, viết cả 1 cuốn sách dầy cộm, chỉ để bàn về 1 câu nhạc, 1 lời hát: Tình Yêu như Trái Phá của TCS?
Hay, về 1 bài tản văn, của GNV, "Cầm Dương Xanh”? 

Why not ?
*

Three Poems by
Charles Simic 

Migrating Birds 

If only I had a dog, these crows congregating
In my yard would not hear the end of it.
If only the mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in the road reading a letter
So all you who went by could envy me. 

If only I had a car that ran well,
I'd drive out to the beach one winter day
And sit watching the waves
Trying to hurt the big rocks
Then scatter like mice after each try. 

If only I had a woman to cook for me
Some hot soup on cold nights
And maybe bake a chocolate cake
A slice of which we'd take to our bed
And share after we've done loving. 

If only these eyes of mine would see better,
I could read about birds migrating,
The vast oceans and deserts they cross
And their need to return to this shithole
After visiting many warm and exotic countries. 

Eternities 

A child lifted in his mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding around him in the park,
Could they be the same person? 

The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
All lit up in the night sail past their kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic. 

All Gone into the Dark 

Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself? 

Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese?

Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead? 

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010 

Note: Cả ba bài đều tuyệt! Rảnh, GNV sẽ dịch hầu quí vị, sau!
Ui chao, đọc cái câu về anh chàng thương binh ngồi ghế lăn, được mẹ đẩy, miệng hô làm thịt thêm VC mà chẳng ‘lạnh’ sao?

*

Bài thơ trên, TV post lên để tặng “GNV và đồng bọn”, quá mê chơi cờ, và mê… Borges, đến mất mẹ nước Mít!

Cao Thủ Cờ Tướng

Tôi nghe nói, trong 1 cuộc chiến ở Persia,
cuộc chiến nào tôi không rõ,
khi những kẻ xâm lăng tàn phá Thành Phố,
đàn bà la thét,
hai cao thủ cờ tướng,
tiếp tục cuộc cờ không chấm dứt của họ,
ở dưới bóng cây, họ cắm mắt cắm mũi vào một cái bàn cờ cũ,
và bên cạnh là một vại cuốc lủi,
thật trịnh trọng, và luôn luôn sẵn sàng
làm dịu cơn khát của hai cao thủ, sau một nước cờ,
bèn ngửa người ra phía sau, tu một đường, chờ đối thủ đi nước cờ của anh ta.

Nhà cháy, tường đổ, của cải bị ăn cướp
Đàn bà bị hiếp, bị trấn vô tường, để tiếp tục hiếp,
trẻ con bị đâm, chém, đường phố đầy máu…
Nhưng hai cao thủ vẫn bình chân như vại, ngay dưới chân thành phố,
tiếp tục chơi cờ, trong tiếng la hét từ phiá xa vọng tới.
Ngay cả khi, trong tiếng gió thoảng, có tiếng la thét, và họ,
trong thâm tâm, thoáng có nghĩ tới, những người đàn bà của họ,
 những đứa con gái ngoan ngoãn của họ, đang bị hiếp,
chắc cũng không quá xa nơi họ đang chơi cờ,
và lông mày, lông mi của họ có thoáng âm u,
tâm tư của họ có nhầu nát, tí ti, thoáng 1 tí,
và họ lại chú mục vào cuộc chơi không chấm dứt,
 
trở về một cách thật là vững tâm với cái bàn cờ cũ của họ.

Khi ông vua bằng ngà trên bàn cờ cũ bị nguy hiểm, thì ai để ý làm gì tới
thịt rơi, máu đổ, ở trên đường phố,
biển máu biển miếc, bà mẹ, người vợ, đứa chị, con em
 bị, hay được… giải phóng ?

Giải phóng hay ăn cướp thì có ăn thua gì tới
một đường thối của Bạch Hoàng Hậu?
Và một khi đi được một nước vừa ý, đặt ông vua vào đúng vị trí,
thì những đứa trẻ đang chết ở xa xa kia, là cái chó gì mà phải quan tâm?

Vargas Llosa, hồi mới lớn mê Sartre, mê dấn thân, nhưng cũng quá mê Borges, thế là cứ tối tối, khi thiên hạ ngủ hết thì mới dám lôi Borges để đọc. Trong cuốn mới xb của ông, có 1 bài về ông thầy thời thơ ấu này, TV sẽ giới thiệu, cùng với bài của Naipaul, và của Mantel, để độc giả phán đoán.
Cách đọc Borges của Martel (1), của Naipaul, theo Gấu, là của những người còn mang nặng gánh nặng nhân sinh, thành thử chịu không nổi Borges!
Cõi văn của ông có gì đó giống như một cõi thơ Đường, và nếu như thế, có thể áp dụng câu phán của Lukacs:
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la maturité virile).

Câu phán của Lukacs còn giải thích lý do, tại làm sao Borges không viết được tiểu thuyết.

(1)

Chính trị mới là đỉnh cao của… văn chương. Tây có câu, “cái còn lại là văn chương”, là để miệt thị thứ văn chương bỏ qua nỗi đau, nỗi khổ của người đương thời, mà chỉ đắm đuối trong cõi mộng, trong cõi chân thiện mỹ. Naipaul chửi Borges là cũng ý đó, ông ta lôi chữ “bất tử” ra, và cứ thế đùa nghịch với nó, quên mẹ mọi chuyện. Steiner phán, những người khóc khi coi truyện tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng, họ đi qua địa ngục thực.
Đọc blog trong nước, của những nhà văn thứ thiệt, than thở, đừng nói chuyện chính trị, chán lắm, là cũng nghĩa đó.
Nên nhớ, vẫn nên nhớ, chẳng cần đến Steiner, văn học quốc tế, dân Mít ngày xưa, học TQ, cũng đã biết được ‘tu thân, tề gia, bình thiên hạ’.
 
Câu của Naipaul chửi Borges, có thể áp dụng vào trường hợp NBC: Ông không hề biết đến lũ Ngụy, vì còn mải mê trong cõi bất tử của những con số.
NKTV

Nhưng câu của Martel mới rõ ra ý đó. Ông viết về Borges:

Borges is often described as a writer's writer. What this is supposed to mean is that writers will find in him all the finest qualities of the craft. I'm not sure I agree. By my reckoning a great book increases one's involvement with the world. One seemingly turns away from the world when one reads a book but only to see the world all the better once one has finished the book. Books, then, increase one's visual acuity of the world. With Borges, the more I read, the more the world was increasingly small and distant.
*

Vụ Án còn là một thứ chuyện “Liêu Trai” có tính tiên tri (un fantasme prophétique), như rất nhiều cuốn sách khác ở trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng. Cuốn tiểu thuyết được in và xuất bản vào năm 1925, nhưng Kafka đã viết nó mười năm trước, tức là năm 1914, trước khi có cuộc cách mạng Nga, Cuộc Đệ Nhất Thế Chiến, chủ nghĩa Quốc Xã Nazi, chủ nghĩa Stalin: thế giới được miêu tả ở trong cuốn sách, chưa hiện hữu, chưa “đi vào hiện thực”. Vậy mà ông nhìn thấy!

Liệu có thể coi ông là Ông Thầy Bói Nostradamus của thế kỷ 20? Không phải vậy: cái thế kỷ có tên là Goulag đó chỉ là một đứa trẻ ngoan ngoãn tuân theo lời phán bảo của ông thầy của nó, mà thôi.   

Ở đây, là một giả thuyết, nghe đến rởn tóc gáy lên được, và cũng hoàn toàn có tính Kafkaien: Liệu tất cả những trò kinh tởm của thế kỷ: chiến tranh lạnh, những chuyện đấu tố, luôn cả bố mẹ, hiện tượng con người có đuôi, lò thiêu, trại tập trung cải tạo, Solhzenitsyn, Orwell…. tất cả là đều nảy sinh từ cái đầu của một anh chàng làm cho một công ty bảo hiểm ở Prague? Liệu hàng triệu triệu con người chết đó, là để chứng minh cho sự có lý, của một cái đầu chứa đầy những ác mộng?
NKTV

Bạn cứ thử tưởng tượng ngược lại: Tất cả những khổ đau của dân Mít, là để chứng minh cho một cái đầu trong suốt, thánh thiện, không hề biết đến Cái Ác Bắc Kít, Lò Cải Tạo, Nguỵ…  và cùng với nó, là giải Nobel Toán cao quý?

Bài thơ trên, TV post lên để tặng “GNV và đồng bọn”, quá mê chơi cờ, và mê… Borges, đến mất mẹ nước Mít!


*

Six Poems

Charles Simic

Nineteen Thirty-Eight

That was the year the Nazis marched into Vienna,
Superman made his debut in Action Comics,
Stalin was killing off his fellow revolutionaries,
The first Dairy Queen opened in Kankakee, Ill.,
As I lay in my crib peeing in my diapers.
“You must have been a beautiful baby,” Bing Crosby sang.
A pilot the newspapers called Wrong Way Corrigan
Took off from New York heading for California
And landed instead in Ireland, as I watched my mother
Take a breast out of her blue robe and come closer.
There was a hurricane that September causing a movie theater
At Westhampton Beach to be lifted out to sea.
People worried the world was about to end.
A fish believed to have been extinct for seventy million years
Came up in a fishing net off the coast of South Africa.
I lay in my crib as the days got shorter and colder,
And the first heavy snow fell in the night.
Making everything very quiet in my room.
I believe I heard myself cry for a long, long time.

Một Chín Ba Tám

Đó là năm binh đoàn Nazi tiến vào Vienna,
Siêu nhân lần đầu xuất hiện trên báo hình Action Comics,
Stalin làm thịt cựu chiến hữu,
Tiệm Dairy Queen khai trương tại Kankakee, Ill.,
Còn tớ thì nằm trong máng cỏ, tè ướt đẫm tã.
“Mi hẳn sẽ là 1 đứa bé cực đẹp”, ca sĩ Bing Crosby thổi tớ.
Một viên phi công mấy tờ báo gọi là “Corrigan Lầm Đường”
cất cánh tại New York, nhắm California
nhưng lại hạ cánh tại Ireland,
trong lúc tớ ngắm nghía bà mẹ của tớ lấy cái vú đầy ứ sữa ra khỏi áo
và đưa nó xuống gần miệng tớ.

Có một trận bão khủng vào Tháng Chín,
nhấc lên cả 1 rạp hát ở Westhampton Beach và thẩy xuống biển.
Dân chúng lo lắng sắp tận thế.
Một chú cá tuyệt chủng từ 70 triệu năm về trước,
bèn xuất hiện, và lọt lưới 1 anh thuyền chài ở phía bên ngoài bờ biển Nam Phi.
Tớ nằm trong máng cỏ trong khi ngày tháng cứ thế kéo dài lê thê,
ngày một ngắn hơn, và lạnh hơn.
Và một trận tuyết nặng nề đầu tiên sẽ rơi xuống đêm nay.
Làm mọi thứ trong căn phòng của tớ càng thêm im ắng.
Và tớ nhớ là, tớ đã khóc, đã khóc, một thời gian thật lâu.
*

Graveside Oration 

Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.

He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap.

Điếu văn bên mồ

Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H. !]
Ghét đờn bà ngọt ngào như mía lùi 

Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.
 
Dead Season

This landscape with its somber skies
Must have fallen in love
With a story by Edgar Allan Poe.
One of its birch trees could be his Eleonora,
And the other, further on, Ligeia.

Life is a dream within a dream,
Whisper the fallen leaves under our feet.
The old house, softly lit from within
By its copper pots and mirrors,
Seems even more abandoned this evening.

What if I were to knock on its door?
Keeping in mind, as I push it open
And enter cautiously, that for Poe
Beauty could be the cause of sudden death.

Charles Simic
The Paris Review, Spring 2010

Mùa Chết

Khung cảnh này với bầu trời xám xịt của nó,
hẳn là đang khật khừ vì tương tư,
một câu chuyện của Edgar Allan Poe.
Một trong những cây bu lô hẳn là
Eleonora của ông ta
Và cái cây kia, có thể là Ligeia.

Đời là mơ trong mơ,
Những lá khô dưới chân chúng ta thì thào.
Căn nhà cổ, sáng nhè nhẹ từ bên trong nó,
Qua mấy cây đèn đồng, và những tấm gương,
Có vẻ hoang phế hơn nhiều,
Vào một buổi chiều tối như thế này.

Chuyện gì xẩy ra nếu tôi gõ cửa?
Và luôn nhớ rõ điều này,
Khi rón rén bước vô căn nhà,
Với Poe,
Cái Đẹp có thể là nguyên nhân của cái chết bất thần.

*

*


Cafe Trieste: San Francisco

To: L.G. 

To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word. 

Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.

Cold, through the large steamed window
watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.

Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch 

just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx 

Your golden mane!
Your riddle! The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear.” 

Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast?

Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs? 

Still, if sins are forgiven
that is, if souls break even
with flesh elsewhere, this joint,
too, must be enjoyed

as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive

[ 1980 ]

Joseph Brodsky: To Urania

Charles Simic là nhà thơ vòng nguyệt quế, Poet Laureate, của Mẽo. Bữa trước, cầm tập thơ của ông lên, đâu chừng chục bài, đề giá trên ba chục, chưa tính thuế, bấm bụng mua, xót quá, về, lên net, thấy đầy thơ của ông, nhưng mấy bài trên, mới xuất hiện trên tờ The Paris Review, thật tuyệt.

Bài thơ "Uống cà phê Quán Chùa" của Brodsky mà chẳng tuyệt cú mèo sao ?
Khổ thơ đầu mới sướng làm sao.
Nó làm nhớ lời hát, "uống môi em ngọt", của PD:

Nơi góc con phố có Quán Chùa,
Tôi trở về nơi này,
Như một tiếng vang.
Về với đôi môi ,
thèm một nụ hôn
hơn là câu hát,
"đừng yêu lính bằng lời"!