|
Trang Thơ
TV mỗi ngày
Seamus Heaney wins £10k
Forward poetry prize for Human Chain
Collection of poems inspired
by Heaney's experiences after a stroke recognized by Britain's
most valuable poetry
prize
Seamus
Heaney tonight won Britain's
most
valuable poetry prize – for a volume of verse inspired by his
experiences after
a stroke.
The £10,000 Forward award for
best collection went to his Human Chain poems, his first since his
stroke in
2006.
Ruth Padel, chair of the
judges, said the work, published by Faber & Faber, was informed by
being
"on the brink", and called it "a collection of painful, honest,
and delicately weighted poems", and "a wonderful and humane
achievement".
Heaney, 71, suffered the
stroke in 2006 in County
Donegal
in an episode
that, he has said, left him "babyish".
One of the poems in his 12th
collection, Chanson d'Aventure, is set during an ambulance journey on
the way
to hospital in which, he said, he was crying for his father.
Seamus
Heaney, 71 tuổi thắng
giải ‘Forward poetry prize’ nhờ tập thơ ‘Human Chain’, làm sau khi xém
bị tim
quật ngã, và tay chủ khảo gật gù, đúng là một ‘tuyển tập những bài thơ
đau
nhức, chân thật và có trọng lượng một cách thật là thanh lịch’, một
‘thành tựu
nhân văn tuyệt vời’
Colm
Tóibín, trong bài điểm tập thơ viết:
Heaney saw poetry itself, no
matter what its content or tone, standing against the dull thought of
life as a
great emptiness. "When a poem rhymes," Heaney wrote, "when a
form generates itself, when a metre provokes consciousness into new
postures,
it is already on the side of life. When a rhyme surprises and extends
the fixed
relations between words that in itself protests against necessity. When
language does more than enough, as it does in all achieved poetry, it
opts for
the condition of overlife, and rebels at limit."
Heaney
nhìn thơ - tự thân nó,
dù nội dung, dù giọng điệu - đứng sừng sững, nhằm chống lại cái tư
tưởng cù lần
về cuộc đời, như là một Cõi Trống Rỗng to tổ bố. Khi vóc thơ hiện
ra, khi một
khúc thơ tạo dáng, bằng cách hục hặc, gây hấn với ý thức, thì nó bèn ở
về phía
của cuộc đời. Khi một nhịp thơ gây kinh ngạc, và đẩy những liên hệ cố
định giữa
những từ, thì tự thân, là đã phản ứng chống lại sự cần thiết. Khi ngôn
ngữ làm
quá cái đủ rồi, đòi cái hơn cả cái đủ rồi, như nó từng làm trong mọi
cõi thơ đã
hoàn tất, nó chọn điều kiện về một cõi ‘trên đời’, và nổi loạn ở cõi
biên cương
giới hạn nó.
Lục bát
Viên Linh
Bài thơ không đề
Tặng Anh Trần
Có được mấy người
Đọc những dòng phân ưu trên
tờ báo chợ
Hay chỉ có một mình ta
Và những giọt nước mắt
Những giọt nước mắt nóng,
Khóc cho ai ?
Cho người đi hay người còn ở
lại,
Chắc là cho cả hai.
Nhỏ ơi! Cả một khung trời thơ
dại,
Vẫn còn nguyên vẹn ở đâu đây
Trong hồn ta, trong dòng
chảy của con sông miền quê ngoại.
Sông ơi, sông đục ngầu phù sa,
Ta thương sông như thương
người bạn tình vắng mặt ở đâu xa.
Nhỏ ơi!
Cả một cuộc đời thăng trầm
Như sóng biển ngoài khơi.
Sinh ly tử biệt,
Người đi thanh thản,
Người ở lại đau thương.
Nhỏ ơi!
Hãy lấy khăn che phủ những
tấm gương,
Để người đi không đau lòng
khi còn ở lại,
Để chỉ một mình ta nhìn thấy
ta.
Trong nỗi sầu miên viễn.
Thu 2010
Thảo Trần
Thơ mỗi ngày
Love in
a mist
Yêu trong sương mù
In May 1904, Guillaume
Apollinaire crossed the Channel in pursuit of Annie Playden, an English
governess (see right). He stayed with an Albanian friend in the London suburb of Chingford, near Epping Forest. He had first come to woo Annie
the previous autumn,
staying at 3 Oakley
Crescent,
off the City Road,
not far from Angel, Islington. The house still stands, though it is
known only
to devoted Apollinaireans. Last week, we went for the first time to
look at the
even more obscure Chingford residence, 36 Garfield Road. Would it be a
worthwhile monument to the first great avant-garde poet of the
twentieth
century? According to Leonard Davis of the Chingford Historical
Society, a
plaque was proposed in 1980 but never materialized.
We regret to say it is just
as well. Garfield Road
- named after the American president James Garfield, assassinated in
1881 - is
a dismal assortment of small ugly houses, with a huge vacant lot in the
centre.
No 36, modernized out of recognition, had blinds drawn, preventing us
peeping
into Apollinaire's living room. The expedition's sole mo1hent of cheer
occurred
as we returned to the railway station, where we spotted an oblong
Victorian
pillar box built into the wall. It was surely used by Apollinaire to
post letters
to Annie. His vain courting became the subject of one of his most
famous poems,
"La Chanson du mal-aimé" (Song of the poorly loved):
One foggy night in London town
A hoodlum who resembled so
My love came marching up to
me -
The look he threw me caused
my eyes
To drop and made me blush
with shame.
Annie is also memorialized,
kaleidoscopically, in "LeӃmigrant
du Landor Road". Of Chingford,
however, the poet left hardly anything besides his pleasure in watching
the
golfers on the nearby Links.
A single publication is
dedicated to the English adventure: One
Evening of Light Mist in London by John
Adlard,
little more than a pamphlet, published by Tragara Press in an edition
of l45.
We located a copy at the Fortune Green Bookshop, a mysterious operation
which
has a shop front in West Hampstead
but is
closed to the public. On request, however, the proprietor kindly agreed
to open
up for us, and one evening of light mist we made our way there to take
possession of the book: mint, numbered 26, a steal at £10.
*
Trên TV, độc giả đã từng
'chứng kiến' 'anh cu Gấu' chạy theo BHD nơi cổng trường Đại Học Khoa
Học Sài Gòn.
Chưa ghê bằng Apollinaire,
tác giả câu thơ mà GNV thuổng, "Ouvrez-moi cette porte où je frappe en
pleurant", còn là tác giả Mùa Thu Chết, và còn là tác giả của cái cú
chạy
theo em nữ quản gia, suốt con kênh nối liền Pháp và Anh, để năn nỉ.
Thua, và bèn làm bài thơ trên,
nguyên tác tiếng Tây, GNV sẽ lục tìm, và dịch sau…
[Hình, TLS Oct 1, 2010]
La Chanson du Mal-Aimé
A Paul Léautaud.
Et je chantais cette romance
En 1903 sans savoir
Que mon amour à là semblance
Du beau Phenix s'il meurt un
soir
Le matin voit sa
renaissance.
Un soir de demi-brume à Londres
Un voyou qui ressemblait à
Mon amour vint a ma rencontre
Et le regard qu'il me jeta
Me fit baisser les yeux de honte
[Bài thơ dài, đây là khổ đầu]
[Bài
thơ dài, đây là khổ đầu]
Thơ mỗi ngày
11.10.2010
Chỗ
ngồi của nhà giáo thời
chiến
Cao Thoại Châu
Tuổi
hai mươi bước vào nghề
giáo
Dẫm lên chông gai những lối
mòn
Thầy nhủ thầm mình làm nhân
chứng
Cho sự chán chường chạy khắp
châu thân
Quê các
em có núi có sông
Có máu chảy loang từng cánh
đồng
Có trận tuyến trên nhiều cây
số
Các em đào dần khoảng trống
trong tim
Thầy
dạy các em tình yêu sông
núi
Yêu đồng bào tổ quốc quê
hương
Nhưng trót giấu đi bề ngang
bề rộng
Và trọn bề sâu của nỗi cô đơn
Các em
say mê con người sáng
tạo
Mê áo cơm và Thượng đế trên
trời
Thầy dậy các em về lòng dũng
cảm
Làm người chân thành mãi mãi
không thôi
Rồi một
đêm khoác áo ra đường
Với nỗi sầu với phẫn nộ như
điên
Đạn vẫn nổ ầm phá tung đêm
lạnh
Máu vẫn chảy hoài trên mỗi
bản tin
Bảng
với phấn và Thầy tự
nhiên vô dụng
Và bơ vơ giữa bóng tối xây
thành
Các em sau này lớn lên mỗi
đứa
Đứng nơi nào trong cuộc chiến
tranh ?
Châu
Đốc 1963
Bài thơ
trên đây mở ra cõi
văn của GNV.
Gấu đọc nó, trên tờ Văn.
Nhưng phải đến khi, đọc 2 câu
thơ của CTC, "Xin lấy máu làm dầu
soi sáng, Cho con cháu mình soi tỏ mặt nhau", hình như trên Nghệ Thuật thì phải, sau khi ăn mìn VC
tại nhà hàng Mỹ Cảnh, khi ở nhà thương Grall, hoặc khi nằm dưỡng thương
tại Đài
Liên Lạc VTD Quốc Tế, số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn, thế là bèn lôi cái
bản
thảo Những ngày ở Sài Gòn ra sửa, rồi
nhờ 1 anh bạn trong Thất Hiền, là Trần Công Quốc, khi đến thăm Gấu, đưa
cho
TTT. Ông đọc, thú quá, bèn cho đăng liền trên tuần báo Nghệ
Thuật, Gấu còn nhớ, số 9.
Số báo đó, có tới 2 truyện
ngắn gây chấn động giang hồ, trong giới nhà văn Mít, tại Quán Chùa.
Truyện ngắn
kia, là Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi,
của Cung Tích Biền.
Đó là
sự thực. Vào thời gian
đó, bạn chỉ cần tấm hộ chiếu, là 1 cái truyện ngắn 'tới chỉ', là có chỗ
ngồi
trong… văn học sử. Cái ông 'nhà văn lính', hay 'lính nhà văn', THT, cho
tới bây
giờ còn lầu bầu, đám Sài Gòn ém tài ông, nhưng ngay tới tận bây giờ,
ông cũng
chưa có nổi 1 cái truyện ngắn, hay 1 bài thơ, làm tấm hộ chiếu chứng
nhận là
nhà văn nhà thơ, thì sao lại nghĩ quẩn là hồi đó đó, tụi nó đố kỵ đám
nhà văn
Miền Trung trong có ông?
Ngay
TTT, hậu thế sau này,
nếu quá nghiêm khắc, hoặc quá khắt khe, thì chắc cũng chỉ giữ lại, 1
hoặc 2
truyện ngắn, trong có Dọc Đường.
Thơ CTC
hồi đầu, thật là
tuyệt. Sau này, trong thơ anh không còn cái ám ảnh chiến tranh nữa, mà
chỉ còn
những bóng hồng, những giai nhân.
Thì vẫn hay, có thể còn hay
hơn, nhiều, tất nhiên!
Bài thơ này, sau đây, mà
chẳng thần sầu, sao?
Để nhớ lúc Trâm xa
Cao Thoại Châu
Hình
như tôi vừa tiễn một
người
có điều gì mất đi trong tôi
lúc qua đèo tôi nhủ mình như
thế
lệ có bào mòn núi cũng không
nguôi
Pleiku
11-05-1969
|
|