Trò chuyện với dòng sông
Những lần gặp Tế Hanh: trò
chuyện với dòng sông
Thanh Thảo ( 2/27/2009
11:16:10 AM )
“MÌNH MUỐN VIẾT MỘT TRƯỜNG CA
VỀ DUNG QUẤT”
Năm 1997, nhà thơ Nguyễn Thụy
Kha thực hiện một phim chân dung Tế Hanh theo đơn đặt hàng của Hội Nhà
văn Việt
Nam. Dĩ nhiên, “nhân vật chính”-nhà thơ Tế Hanh- được trân trọng mời về
Quảng
Ngãi, về tận quê ông ở Bình Dương-Bình Sơn để “đóng phim”. Được quen
với Tế
Hanh từ hơn 20 năm trước, tôi vẫn biết Tế Hanh là người thật thà, rất
thật thà
và có vẻ không quen “trình diễn” trước đông người. Ông nói chuyện thơ
không
cuốn hút như Xuân Diệu, không sắc sảo như Chế Lan Viên. Và tôi nghĩ,
chắc ông
cũng “đóng phim” không xuất sắc như Nguyễn Tuân hay một số nhà văn nhà
thơ
khác. Tôi nhầm! Dù không “diễn” theo kiểu diễn viên chuyên nghiệp trước
ống
kính, nhưng Tế Hanh vào vai “hơi bị được”. Ông cứ thật thà và bình dị
như thế
trước ống kính, cũng không khác khi ông chuyện trò với chúng tôi bên ấm
trà hay
thảng hoặc bên chai bia. Chính cái thật không vẽ vời của ông đã khiến
Nguyễn
Thụy Kha có được những thước phim chân dung rất thuyết phục.
Có lần, trong “kịch bản”, Tế
Hanh có về Dung Quất để “diễn xuất”. Chúng tôi tháp tùng ông ra tận bờ
biển
vịnh Dung Quất, nơi sẽ là cảng dầu khí gì đó. Thực ra lúc bấy giờ chẳng
thấy
cảng dầu ở đâu, chỉ gặp một bờ biển đẹp thì rất đẹp nhưng... bẩn cũng
cực bẩn.
Đầy phân người tươi rói và cả khô cứng. Tôi với Thụy Kha phải dìu Tế
Hanh đi
từng bước thận trọng trên bãi cát, sợ ông dẫm phải “lựu đạn” gài. Thời
gian ấy
mắt Tế Hanh đã bị đau nặng, gần như ông không nhìn thấy gì, hoặc chỉ
nhìn lờ
mờ. Quay phim xong, cả đoàn chúng tôi lên một quán cóc phía trên bãi
biển và
gọi vài con mực nướng, mấy chai bia Dung Quất-bia Quảng Ngãi sản xuất -
để
“liên hoan”. Tế Hanh tuy chỉ nhấm nháp chút bia “quê nhà” nhưng ông rất
hào
hứng nâng ly với chúng tôi. Ông đâu ngờ chính vào lúc ấy, ông đã giúp
cho nhà
máy bia Dung Quất những hình ảnh quảng bá sản phẩm có một không hai:
nhà thơ Tế
Hanh uống bia Dung Quất ngay tại... Dung Quất! Quảng cáo như thế thì
tuyệt vời
chứ ạ! Sau này, tôi có hỏi ông giám đốc bia Dung Quất: có gì không ông?
Ông ta
cười khà khà: “No, I don’t know” (không, tôi không biết!). Đúng là “hết
biết”.
Trong câu chuyện tâm tình bên vịnh Dung Quất, chợt Tế Hanh nói: “Vùng
này hồi
xưa gọi là thôn Tuyết Diêm. Đây là thôn của diêm dân - những người làm
muối.
Hồi nhỏ mình có trọ học ở đây
một thời gian. Dân ở đây nghèo lắm. Nếu ta làm được Dung Quất cho dân
Tuyết
Diêm đổi đời thì không mừng nào bằng! Mình muốn viết một trường ca về
Dung
Quất. Mình có một khoảng thời thơ ấu ở đây. Mình muốn viết...”. Chúng
tôi đều
lặng người nghe ông nói. Năm 1997, Tế Hanh đã 76 tuổi (ông sinh năm
1921 - tuổi
Tân Dậu - chúng tôi vẫn đọc đùa ông: “Liên Xô nở trước đời Ông... 4
tuổi). Vậy
mà ông vẫn khát khao viết được một bài thơ dài về quê hương mình. Trong
khi
chúng tôi còn trẻ hơn ông rất nhiều, lại cứ mải bia bọt rong chơi, chỉ
thỉnh
thoảng ghé Dung Quất viết vài bài... báo. Mà không hẳn đã ngợi ca. Lời
bộc bạch
chân tình của Tế Hanh khiến cả đoàn chúng tôi cảm động. Nhưng cũng rủi
mà may,
là nếu ông bắt tay vào viết cái trường ca ấy, số phận nó chắc cũng long
đong
như... nhà máy lọc dầu Dung Quất, chẳng biết lúc nào và bao giờ có câu
kết
thúc.
SÁNG CÔ ÁO ĐỎ CHIỀU CÔ ÁO
XANH
Năm 1994, tôi được nhà xuất
bản Đà Nẵng mời tham gia vào Hội đồng biên soạn và tuyển chọn một tập
thơ Miền
Trung thế kỷ hai mươi. Nhà thơ Tế Hanh là chủ biên công trình này. Lại
có được
một khoảng thời gian chúng tôi sống cùng Tế Hanh để làm việc và... lai
rai. Dạo
đó mắt Tế Hanh đã yếu lắm. Nghe nói Ông được đi nước ngoài chữa mắt,
nhưng bệnh
vẫn không thuyên giảm là mấy. Chúng tôi làm việc tập thể, và theo kiểu
“tuyên
đọc” từng bài thơ đã sơ chọn để Tế Hanh nghe và thẩm định. Ngồi với
nhau như
thế ngày này qua ngày khác cũng rất mệt, nhưng tôi thấy Tế Hanh nghe
rất chăm
chú và có những nhận xét xác đáng. Ông là người tinh tường trong thẩm
thơ. Chỉ
khổ một nỗi là nhà thơ ở xứ ta nhiều quá, bản thảo thơ lại càng nhiều
nên chúng
tôi đọc khan cả cổ mà vẫn chưa hết.
Tế Hanh vẫn kiên nhẫn ngồi
nghe, không hề tỏ ra mệt mỏi, dù tôi biết ông rất mệt. Thỉnh thoảng
cũng có
những lúc thư giãn, chúng tôi ngồi uống bia và tán chuyện linh tinh. Tế
Hanh
rất hồn nhiên trong những lúc ấy, ông tham gia nhiệt tình với đám trẻ
chúng
tôi. Có lần, chị giám đốc nhà khách tỉnh ủy-nơi chúng tôi ở- hớn hở đến
chào
nhà thơ Tế Hanh. Buổi sáng, chị đến chào. Buổi chiều, chị lại... chào
đến.
Chúng tôi kín đáo nhìn nhau cười: thế này, khéo có chuyện(?). Đột ngột,
trong
lần “chào buổi chiều” của người đẹp U... 50, Tế Hanh chợt nói, bằng
giọng Quảng
Ngãi “gốc” của ông: “Buổi sáng cô mặc áo đỏ, buổi chiều cô mặc áo xanh,
đẹp
quá!” Chúng tôi nhìn nhau, chưng hửng: chết, hoá ra ông cụ còn... nhìn
thấy.
Nhìn đúng nữa chứ! Chị giám đốc nhà khách được nhà thơ lớn khen...
trúng phóc,
hai má chợt đỏ rựng lên trên nền áo... xanh.
“MÌNH THÍCH THƠ HIỆN ĐẠI LẮM,
NHƯNG...”
Tế Hanh thời chưa đau mắt
nặng ông rất mê đọc sách. Ông là một trong những nhà thơ Việt đọc thơ
Tây nhiều
nhất.Vậy mà giọng thơ Tế Hanh vẫn rất mộc mạc, thật hồn nhiên và với
ông, kỹ
thuật thơ, dù là kỹ thuật tân kỳ, vẫn không khiến ông quan tâm bằng
chính cảm
xúc và sự hồn nhiên, đôn hậu. Có lần, cách đây đã hơn 20 năm, trong dịp
về Qui
Nhơn, ông nói với tôi: “Mình thích thơ hiện đại phương Tây, nhất là thơ
hiện
đại Pháp”. Tôi hỏi ông thích ai trong những nhà thơ Pháp hiện đại, Tế
Hanh nói:
“Mình thích , nhất là những sáng tác thời kỳ sau của ông mà ở ta chưa
dịch. Thơ
trôi chảy như một dòng sông lớn. Mình thích Eluard. Thơ Ông trong veo
nhưng rất
khó nắm bắt. Mình thích thơ Rene Char, một nhà thơ Pháp tham gia kháng
chiến
chống phát xít nhưng làm thơ u ẩn như một thiền sư Phương Đông. Mình
thích thơ
Saint-John- Perse, thơ ông này có kiến trúc nguy nga và ào ạt như sóng
trào.
Mình thích Andre Breton, nhưng chỉ thích phần lý luận thơ ca của ông
này, chứ
không thích thơ mấy. Mình thích...” Tôi nghe như nuốt từng lời của ông.
Người
làm thơ vẫn thường học nhau, lớp trước truyền cho lớp sau những thu
nhận và suy
ngẫm, những tri thức và sự từng trải. Tôi đã học được ở Tế Hanh, Xuân
Diệu, Văn
Cao... rất nhiều. Uyên bác như thế, nhưng Tế Hanh làm thơ rất thật thà
và hồn
nhiên. Ông vẫn là ông, cho tới cuối đời.
NHỚ CON SÔNG QUÊ HƯƠNG
Nếu 6 năm qua, trong bệnh
tật, vẫn còn một cái gì đó trong Tế Hanh, cái đó tôi nghĩ chính là dòng
sông
quê hương ông. Trong lần làm phim chân dung Ông năm 1997, chúng tôi đã
có dịp
cùng Tế Hanh về quê Bình Dương của ông: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài
lưới/Nước
bao vây cách biển nửa ngày sông”. Hai câu thơ đã nói lên hết cái “lý
lịch” của
làng Đông Yên quê Tế Hanh. Trong lần về quê ấy, cũng nhờ yêu cầu của
đạo diễn
mà chúng tôi được cùng Tế Hanh đi thuyền trên dòng sông Trà Bồng đoạn
chảy qua
Bình Dương quê ông. Dạo ấy vẫn còn những chiếc cầu tre bắc ngang sông,
và tôi
ít thấy một dòng sông nào nước xanh trong đến thế! Chúng tôi như mê đi
trong
cái mát mẻ của dòng sông, của những “bờ tre ríu rít tiếng chim kêu”,
của những
“mặt nước chập chờn con cá nhảy...”. Dòng sông bỗng trở nên đẹp hơn,
lung linh
huyền ảo hơn kể từ khi có bài thơ Nhớ con sông quê hương của chính đứa
con dòng
sông ấy. Dòng sông chính là quê hương, chính là người Mẹ của Tế Hanh,
và Ông đã
để hết tâm hồn và tình cảm của mình vào bài thơ đã và sẽ sống mãi cùng
dòng
sông quê hương ông.
“Tôi nhớ không nguôi ánh nắng
màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời
xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không
quen biết
Có những trưa tôi đứng dưới
hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi
tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát
rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như
suối tưới...”
Ra đi từ dòng sông và trở về
với dòng sông, thơ Tế Hanh là cuộc chuyện trò thầm thỉ không dứt với
con sông
thân yêu của đời mình. Và chính ông cũng là một dòng sông, một dòng
sông bình
dị và đầy xúc cảm, một dòng sông biết chắt chiu từng gàu nước ngọt cho
những
người dân Việt thực thà đôn hậu và không thể sống thiếu một dòng sông.
Nhà thơ
như ông, thực không còn gì phải ân hận khi cuối cùng được hoá thân vào
chính
dòng sông thương thiết nhất đời mình: dòng sông quê hương.
Nguồn TCSH
Nguồn
net Hội Nhà Văn
Thanh Thảo
viết về Tế Hanh.
Tuyệt! NQT
*
Những
ngày nghỉ học
Tế Hanh
(Tặng Nguyễn Văn Bổng)
Những ngày nghỉ học tôi hay
tới
Đón chuyến tầu đi đến những
ga…
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia
xa.
Tôi
thấy lòng thương những
chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi
máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ
đau.
Bánh
nghiến lăn lăn quá nặng
nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau
tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về
không nói bước vương
vương
Thương nhớ lan xa mấy dặm
trường.
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn
phương.
Nguồn net
Tôi đứng bơ vơ
xem tiễn biệt.
Tuyệt cú. Thần cú!
Ui chao, Gấu lại
nhớ đến cảnh Gấu đứng bơ vơ, xem Gấu tiễn biệt: Tiễn biệt cô bạn đi lấy
chồng!
Cái gì gì:
“Em đi áo mỏng mềm
lưng phố,
Có động lòng thương
kẻ cuối đường”!
Ui
chao, lại nhớ lần tỏ tình với một nữ thi sĩ,
"cũng mới đây thôi", anh nhớ em đến vãi lệ.
Em mắng, già rồi vãi lệ hoài, con nít
nó cười cho!
*
Cô bạn của Gấu, là
tác giả câu thơ
thần sầu:
Hồn Đông phương thất lạc,
buồn
Tây phương. (1)
Ui chao, chỉ cần một câu thơ,
đủ là thi sĩ, đủ chứng minh câu của Borges:
Thơ, là để trao cho thi
sĩ.
Cái đám thi sĩ dởm, hay cả một
trường phái thơ dởm Tân Hình Thức, liệu có nổi, chỉ một câu thơ?
(1) Ai cho phép mi là thi sĩ ?
*
Lại nói
chuyện thơ được trao cho thi sĩ, thi sĩ dởm chớ làm thơ!
Lần Gấu qua Cali,
mới đây, gặp một thi sĩ, cũng đã từng văn kỳ thanh, lần này nhất kiến
kỳ hình. Ông nói, tôi thích mấy bài ông viết về thơ, có in từ net ra,
treo ở bàn làm việc, lâu lâu bí thơ, đọc đỡ nhớ.
Ui chao, Gấu cả đời không dám liều mạng làm thơ, bèn lèm bèm viết về
thơ, theo kiểu ăn đồ chay thay đồ mặn, vậy mà được bạn thơ khen, sướng
nào bằng!