1 2 3 4
|
PERSPECTIVE
They
passed
like strangers,
without a
word or gesture,
her off to
the store,
him heading
for the car.
Perhaps
startled
or
distracted,
or
forgetting
that for a
short while
they'd been
in love forever.
Still,
there's no guarantee
that
it was them.
Maybe yes
from a distance,
but not
close up.
I watched
them from the window,
and those
who observe from above
are often
mistaken.
She vanished
beyond the glass door.
He got in
behind the wheel
and took off.
As if
nothing had happened,
if it had.
And I, sure
for just a moment
that I'd
seen it,
strive to
convince you, O Readers,
with this
accidental little poem
that it was
sad.
-Wislawa
Szymborka
(Translated,
from the Polish, by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh.)
Viễn tượng
Họ đi ngang nhau
như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời,
một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng
xe
Có lẽ nhói một
cái,
Hay lơ là một
tí
Hoặc lãng quên
một tẹo
Và thế là
trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất
tận
Tuy nhiên chẳng
có chi bảo đảm
Đó là Gấu và
CM
Có lẽ đúng là
hai đứa đó
Nếu nhìn từ
xa
Đừng dí mắt
thật gần
Tôi nhìn hai
đứa từ trên cửa sổ
Và nhìn từ
xa, từ phía bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất
quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô
xe
Và tếch
Như chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc
chắn vào lúc đó
Nhìn
thấy như
vậy
Và
cố gắng
thuyết phục bạn,
Ôi
nnhững độc
giả của tôi
Bằng
bài thơ
nho nhỏ tình cờ này
Rằng,
buồn,
buồn thật đấy
[To CM. The Bear]
*
ON PASTERNAK
SOBERLY
Czeslaw
Milosz
FOR THOSE
WHO WERE FAMILIAR with the poetry of Boris Pasternak long before he
acquired
international fame, the Nobel Prize given to him in 1958 had something
ironic
in it. A poet whose equal in Russia was only Akhmatova, and a congenial
translator of Shakespeare, had to write a big novel and that novel had
to
become a sensation and a best seller before poets of the Slavic
countries were
honored for the first time in his person by the jury of Stockholm. Had
the
prize been awarded to Pasternak a few years earlier, no misgivings
would have
been possible. As it was, the honor had a bitter taste and could hardly
be
considered as proof of genuine interest in Eastern European literatures
on the
part of the Western reading public-this quite apart from the good
intentions of
the Swedish academy.
After
Doctor
Zhivago Pasternak found himself entangled in the kind of ambiguity that
would
be a nightmare for any author. While he always stressed the unity of
his work,
that unity was broken by circumstances. Abuse was heaped on him in
Russia for a
novel nobody had ever read. Praise was lavished on him in the West for
a novel
isolated from his lifelong labors: his poetry is nearly untranslatable.
No man
wishes to be changed into a symbol, whether the symbolic features lent
him are
those of a valiant knight or of a bugaboo: in such cases he is not
judged by
what he cherishes as his achievement but becomes a focal point of
forces
largely external to his will. In the last years of his life Pasternak
lost, so
to speak, the right to his personality, and his name served to
designate a
cause. I am far from intending to reduce that cause to momentary
political
games. Pasternak stood for the individual against whom the huge state
apparatus
turns in hatred with all its police, armies, and rockets. The emotional
response to such a predicament was rooted in deep-seated fears, so
justified in
our time. The ignominious behavior of Pasternak's Russian colleagues,
writers
who took the side of power against a man armed only with his pen,
created a
Shakespearian situation; no wonder if in the West sympathies went to
Hamlet and
not to the courtiers of Elsinore.
Về
Pasternak, thật nhã.
Với những người quen
từ lâu với cõi thơ
Pasternak, chuyện ông được Nobel vào năm 1958 có cái gì tiếu lâm ở
trong đó.
Một nhà thơ, mà cỡ ngang hàng với ông, ở quê hương của ông, độc nhất có
một, đó
là Bà Chúa Thơ Nga Akhmatova; một dịch giả ‘mắt xanh’ của Shakespeare;
nhà thơ
đó, dịch giả đó phải viết một cuốn tiểu thuyết tổ chảng, và cuốn tiểu
thuyết đó
gây chấn động trên khắp chốn giang hồ, và là một best-seller, chỉ tới
khi đó,
thì qua cá nhân con người là ông, cả một cõi thi ca của những xứ sở
Slavic cùng
với những thi sĩ của nó, mới được cái vinh danh được ban giám khảo
Nobel lần đầu tiên để mắt
tới! Giá mà giải
thưởng được trao sớm hơn vài năm thì thật đỡ khổ. Chậm mấy năm mà
thành ra trong vinh quang
có tí mùi vị cay đắng, và thật khó coi đây là một bằng chứng của cặp
mắt xanh của
Tây Phương, khi nhìn về cõi thơ Đông Âu, điều này thì cũng nằm ngoài
thiện ý của
Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển.
Sau Bác sĩ
Zhivago, Pasternal thấy mình lâm vào một cái thế mơ mơ hồ hồ và
quả là một cơn ác
mộng đối với bất cứ một tác giả. Trong khi ông vẫn hằng tin vào tác
phẩm của mình
như một cõi trời riêng, thì cái thế nhất quán này bèn bị hoàn cảnh bẻ
gẫy. Ở quê
hương của chính ông, lũ khốn nạn túm năm tụm ba, và, không chỉ rù rà rù
rì, mà còn
lớn tiếng chê bai, úi giào, này, có ai đã từng đọc cuốn tiểu thuyết
được Tây phương
thí cho giải Nobel của ông ta chưa? Tây phương thì thật hoang phí,
trong cái
chuyện ngợi ca ông, về một cuốn tiểu thuyết đơn độc, và hầu như tách
hẳn ra khỏi
toàn cõi thơ mà ông một đời cực nhọc lao động. Và cái cõi thơ đó thì
lại vô phương
chuyển ngữ. Chẳng
có người đàn ông nào mong cái chuyện biến thành một biểu tượng.
Đọc thơ NLV
Poet's
handmaids:
C'est
le goût de vivre qui
est blessé dans ces heures-là. C'est toujours l'amour en nous qui est
blessé,
c'est toujours de l'amour que nous souffrons même quand nous croyons ne
souffrir
de rien.
Luôn
luôn niềm vui sống bị thương tổn vào những giờ phút đó. Luôn luôn chúng
ta đau khổ vì tình yêu trong chúng ta, ngay cả khi chúng ta tưởng rằng,
chẳng thể nào đau khổ.
Mais, même dans ces heures-là, je ne te perds pas complètement: tu es,
mon amour, la joie qui me reste quand je n'ai plus de joie.
Em là
niềm vui của anh khi anh chẳng còn một nguồn vui nào.
Un jour je te dirai
à quel point je t'oublie dans le premier visage venu et à quel point je
t'y
retrouve.
Một
ngày nào anh sẽ nói cho em nghe, anh quên em tới mức nào, khi vừa thấy
bóng một cô thiếu nữ trờ tới, và tới mức nào, anh lại nhìn thấy em
trong dáng dấp đó.
Christian Bobin: L’inespérée
[Note: Những câu tiếng Việt, chỉ là mô phỏng những
câu tiếng Tây, dành riêng cho CM. NQT]
MUSIC
for
D.D.S.
A flame
burns within her,
miraculously,
While
you look, her edges
crystallize.
She
alone will draw near and
speak to me
When
others are afraid to
meet my eyes.
She was
with me even in my
grave
When
the last of my friends
turned away,
And she
sang like the first
storm heaven gave,
Or as if flowers were having
their say.
1958
Dimitri
D. Shostakovitch:
1906-1975, great Russian composer.
[Anna
Akhmatova: Poems,
selected and translated by Lyn Coffin; introduction by Joseph Brodsky]
*
poésie
par
Jean-Yves Masson
LA
RUSSIE INCARNÉE
Anna
Akhmatova, l'une des
grandes voix du xxe siècle
*
La
Musique
à D. D.
Ch.
Il y a
en elle un miracle qui
brûle.
Sous
nos yeux, elle forme un
cristal.
C'est
elle-même qui me parle
Quand
les autres ont peur de
s'approcher.
Quand
le dernier ami a
détourné les yeux
Elle
est restée avec moi dans
ma tombe.
Elle a
chanté comme le
premier orage
Ou
comme si les fleurs se
mettaient toutes à parler.
Anna
Akhmatova (1889-1966)
*
Âm nhạc
Tặng Shostakovitch
Có ở trong nàng một phép
lạ rực cháy
Dưới mắt chúng ta nàng
tạo thành một khối pha lê
Chính là nàng đang nói
với tôi
Trong khi những kẻ khác
không dám tới gần.
Khi người bạn cuối cùng
quay mặt
Nàng ở với tôi trong nấm
mồ.
Nàng hát như cơn dông bão
đầu tiên
Như thể tất cả những bông
hoa cùng một lúc cùng cất tiếng.
Ce
qu'Anna Akhmatova dit de
la musique, dans ce poème de 1958 dédié à Chostakovitch, tous ses
lecteurs
peuvent le dire de sa poésie: non seulement ceux qui lurent
clandestinement ses
poèmes au temps où, célèbre dans toute la Russie, elle était réduite au
silence
par la censure stalinienne, mais tous les autres, ses lecteurs
d'aujourd'hui et
de demain.
Điều mà Anna Akhmatova nói về âm nhạc, trong bài thơ tặng nhà soạn nhạc
Chostakovich, tất cả những độc giả có thể coi như là điều bà nói về thơ
của bà, không chỉ những độc giả đọc thơ bà lén lút, vào cái thời mà,
nổi tiếng khắp nước Nga, bà bị bắt buộc phải câm lặng, do chế độ kiểm
duyệt của Stalin, nhưng tất cả những độc giả khác nữa, bây giờ, hay sau
này.
Depuis
que Paul Valet, en
1966, traduisit (chez Minuit) le Requiem qui la révéla en France,la
renommée
d'Akhmaatova n'a cessé de s'étendre à travers le monde. Au fil des ans,
Sylvie
Técoutoff ou Christian Mouze s'attachèrent à la traduction de recueils
entiers,
tandis que Jeanne et Fernand Rude (chez Masspero en 1982) ou Jacques
Burko (éd.
Orphée/La Différence, 1997) proposaient des anthologies. Venant après
eux, le
choix de poèmes que publie aujourd'hui Jean-Louis Backès dans la
collection
Poésie/Gallimard est le plus complet qu'on ait eu à ce jour; il donne à
lire
environ la moitié de l'œuvre de celle
qui est peut-être le plus grand poète russe du xxe siècle.
Même si
l'on hésite à bon
droit à la placer au-dessus de Blok, de Mandelstam, de Tsvetaïeva ou de
Pasternak, qui furent ses amis, Anna Akhmatova possède au suprême degré
cette
qualité qu'on nomme la grandeur; elle éclate à toutes les pages des
Enntretiens
avec AnnaAkhmatova publiés par Lydia Tchoukovskaia (éd. Albin Michel,
1980),
témoignage irremplaçable qu'il serait urgent de rééditer. La grandeur,
en
poésie, consiste peuttêtre simplement à traiter le réel avec une
intransigeance
absolue. De ses vers, Anna Akhmatova affirmait qu'ils avaient bien pu
être
parfois « amerrtume et mensonge/Mais consolation, jamais ».
Après
dix-sept mois passés à
faire la queue devant les prisons de Leningrad en 1938 pour rendre
visite à son
fils, pendant que « l'innocente Russie se tordait de douleur/sous les
bottes sanglantes»,
celle qui avait été dans sa jeunesse « la joyeuse pécheresse» de
Tsarskoïe Selo
et le plus virtuose des poètes de l'école acméiste devint la Russie en
personne. Pas moins. Parce que l'époque l'exigeait d'elle. Parce que la
Russie
réelle, comme la ville légendaire de Kitège, s'était faite invisible,
accessible seulement aux cœurs purs. Nul mieux que Jean-LouisBackès,
traducteur
de Pouchkine et de tant d'autres poètes, ne pouvait offrir de cette
œuvre une
vision aussi sobre et juste, restituant dans sa plénitude l'extrême
tension de
ces vers.
À quand
des Poèmes complets
d'Akhmatova ?
*
Requiem,
Poème sans héros et
autres poèmes
Anna
Akhmatova (1889-1966)
Présentation, choix et traduction de Jean-Louis Backès
Ed.
Gallimard, « Poésie »,
9,30 €.
[Le
magazine Littéraire,
Avril 2007]
Hai,
trong ‘Top 10’, những “Search
Keyphrases” của Tin Văn, theo từng tháng, tuyệt vời làm sao, là hai cụm
từ cùng
“liên can” tới cái hồn của văn chương Miền Nam, là nhạc sến, và cùng
làm nhớ tới
entry đầu tiên Gấu đọc trên blog của CM
Một entry về mưa Sài
Gòn
Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi
Hóa ra là thiên
hạ vô trang Tin Văn là để tìm cái hồn văn chuơng Miền Nam, đã thất lạc
cùng với cuộc ăn cướp của Yankee mũi tẹt:
Hồn Đông phương thất lạc, buồn Tây phương!
sorry I
don't respond
But it isn't, after all, my
fault
That I don't correspond
To the other you loved in me.
Each of
us is many persons.
To me I'm who I think I am,
But others see me differently
And are equally mistaken.
Don't dream me into someone
else
But leave me alone, in peace!
If I don't want to find
myself,
Should I want others to find
me?
26 AUGUST 1930
Fernando Pessoa
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến
nhé,
Bởi vì em đâu có phải là cái
người mà anh yêu, và thấy, ở nơi em?
Mỗi chúng ta, thì là rất nhiều
người.
Với em, em là cái người mà em
nghĩ, em là.
Nhưng anh lại nhìn em, như là
một người khác,
Thế mới khổ cho thân anh!
Đừng yêu em bằng cách tưởng tượng
ra em là một người nào khác.
Cút cha anh đi, để cho em một
mình, yên thân em!
Nếu em đếch thèm tìm kiếm em
Thì làm sao lại có chuyện tầm
phào
Anh tìm em, làm cái đéo gì?
Note: To U, CM.
To celebrate our just chat, in which U said, U think,
I really love U, as a boy loves a girl!
Not as a man loves a woman!
How cool U R!
Tks
NQT
|
|