1 2 3 4
|
“Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình
làm đối tượng”
DT.
Ý này, là của Roland Barthes,
khi ông bàn về phê bình văn học. Áp dụng vào thơ, thì quá đơn giản, và
sợ… sai.
Mọi tiểu thuyết gia, mọi thi
sĩ, múa may quay cuồng với những đường đao thế kiếm dựa trên bất cứ một
lý
thuyết văn học gì thì gì, tựu chung cũng là để nói về tuồng ảo hóa đã
bầy ra
đấy [nguyên văn: để nói về những sự vật, và hiện tượng, to speak of the
objects
and phenomena], cho dù những thứ này là do tưởng tượng, ở bên ngoài
hoặc là có
trước ngôn ngữ: thế giới hiện hữu và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự
vật, hay
đối vật, the object, của phê bình khác hẳn: Đối vật của phê bình không
phải là
"thế giới" nhưng mà là một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói
đó, là của một người nào đó: phê bình là một bài viết/nói về một bài
viết/nói;
nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý
luận gọi).
Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất
(hay, ngôn
ngữ sự vật, language object). Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng
(deal)
với hai thứ liên hệ: liên hệ giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của
tác giả
được tìm hiểu, và liên hệ giữa ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính
sự
"đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, là cái gọi là
phê bình. Và, có lẽ, sự đụng độ này làm cho phê bình thật giống với một
hoạt
động tâm thần khác, lý luận học, môn này cũng đặt nền tảng trên sự phân
biệt
giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ.
Roland Barthes: Phê bình là
gì?
Như thế, chúng ta có thơ, như
là ngôn ngữ của đời sống, rồi có nhà phê bình Đặng Tiến, viết về thơ,
bằng
"ngôn ngữ tự lấy mình là đối vật."
… C'est parce qu'une oeuvre
est faite de ses mots poétiques qu'elle a sa densité (Ezra Pound dit :
«
charger les mots de sens jusqu'à l'extrême degré possible »). Et ces
mots
poétiques (la beauté, étant
leur rapport intime, ne peut être que
tardivement
percue, et plutôt le nom passif d'un acquis, généralement, que la
conscience
des découvertes), ils ne sont une exploration du langage que parce
qu'ils sont
recherche d'un homme.
Ainsi la visée d'une telle
poétique est l'oeuvre, dans ce que son langage a d'unique. C'est
l'oeuvre unité
de vision syntagmatique et l'oeuvre unité de diction rythmique et
prosodique -,
système et créativite, objet et sujet, forme-sens, forme-histoire.
Henri Meschonnic: Pour La
poétique I
Bởi vì một tác
phẩm được làm
ra bằng những từ ngữ thơ mà nó có độ đặc của nó [nói như Ezra Pound:
“Hãy ‘sạc’
ý nghĩa cho những từ đến khi nó no đủ hết còn sạc thêm được nữa"]....
Le sujet des études littéraires
n'est pas la littérature dans sa totalité, mais la “littérarité”
(literalurnost') c'est-à-dire « cela qui fait d'une oeuvre donnée une
oeuvre
littéraire ". La Jeune Poésie russe, Prague,
1921, cité par Victor Erlich, Russian
Formalism, Mouton, 1965, p. 172 . “L'objet de la poétique, c'est,
avant
tout, de répondre à la question: Qu'est-ce qui fait d'un message verbal
une oeuvre
d'art? » Linguistique et Poétique,
1960, dans Essais de linguistique générale,
[Roman Jakobson] Ed. de Minuit, p. 210.
Đề tài của những nghiên cứu văn
học không phải là văn học trong cái toàn thể của nó, nhưng mà là “tính
văn”, tức
‘điều làm cho một tác phẩm có đó, trở thành một tác phẩm văn học"… Bàn
về thơ, trước
hết, là làm sao trả lời được câu hỏi: “Cái gì làm cho một văn bản, một
thông điệp,
trở thành một tác phẩm nghệ thuật?”
Henri
Meschonnic: Pour La
poétique I
Henri
Meschonnic:
disparition du poète traducteur
Le
poète, traducteur et linguiste Henri Meschonnic
nous a quittés mercredi 8 avril. Notamment connu pour ses
traductions de
la Bible, mises en scène au théâtre par Claude Régy, il était également
un
polémiste, défenseur de la poésie et des poètes. Dans le numéro de
septembre
1998 du Magazine littéraire, il publiait un texte plein de
colère contre
les exégètes de Mallarmé, Jacques Rancière et Yves Bonnefoy:
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Poem
(To A)
I shall miss you so much when I'm dead
The loveliest of smiles
The softness of your body in our bed
My everlasting bride
Remember that when I am dead
You are forever alive in my heart and my head
Harold Pinter
[Granta 100. Winter 2007]
*
To M
Hãy nhớ là khi Anh chết
M sẽ sống hoài trong trái tim của Anh.
*
Welcome
to my world: Hub Cafe - Tecapro
Park
18A Cộng Hòa Q.Tân
Bình, từ 16.05.09. M
Tối hôm qua, trong lúc chờ
mail M, Anh mới ngộ ra một điểu là, hai câu thơ của me-xừ PTD quả là
đúng cho
cuộc tình tưởng tượng của hai ta:
Cùng mắc võng trên rừng
Trường
Sơn,
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm.
Anh ở một đầu: ở đầu và ở cuối
một cuộc chiến.
M ở một đầu: khởi đầu một
cuộc đời.
Gặp nhau đã khó, xa nhau lại
càng... dễ! NQT
*
Letter from a Reader
Too
much about death,
too many shadows.
Write about life,
an average day,
the yearning for order.
Take
the school bell as your
model
of moderation,
even scholarship.
Too
much death,
too much
dark radiance.
Take a
look,
crowds packed
in cramped stadiums
sing hymns of hatred.
Too
much music
too little harmony, peace,
reason.
Write
about those moments
when friendship's
foot-bridges
seem more enduring
than despair.
Write
about love,
long evenings,
the dawn,
the trees,
about the endless patience
of the light.
Adam Zagajewski
Dịch từ tiếng Ba Lan: Clare
Cavanagh
*
Từ
một độc giả
Tin Văn
Đen thui,
Ngoại trừ những dòng
Về BHD
Quá nhiều về chết
chóc
Quá nhiều bóng tối
Hãy viết về cuộc
đời
một ngày, khoảng
đó,
khát khao trật tự
*
Trang thơ Adam Zagajewski
Đặng
Tiến là Trùm bình thơ,
Gấu này nể ông, từ hồi còn đi học, hoặc mới tập tành viết lách, và, tuy
mê
thơ, nhưng
chẳng bao giờ dám để mắt tới. Chẳng thế, một lần hung hăng dọa, sẽ viết
về thơ TTT,
và ông ngạc nhiên, trợn tròn con mắt, rồi bật cười, ừ, thì viết đi!
Tuy nhiên, cái tài thẩm thơ của
họ Đặng, theo Gấu, là nhờ trời phú, bẩm sinh đã có, nhiều hơn, là do tu
tập, hoặc, phần tu tập của ông,
tuy cũng chẳng kém gì ai, nhưng không lấn được phần bẩm sinh.
Nhân tiện, trong khi chờ [Godot] mail M, Gấu thử lèm bèm về thơ, chăng?
*
SUBJECT: BRODSKY
Please note:
born in May,
in a damp city (hence the motif: water),
soon to be surrounded by an army
whose officers kept Holderlin
in their knapsacks, but alas, they had
no time for reading. Too much to do.
Tone —
sardonic, despair — authentic.
Always en route, from Mexico
to Venice,
lover and crusader, who campaigned
ceaselessly for his unlikely party
(name: Poetry versus the Infinite,
or PVI, if you prefer abbreviations).
In
every city and in every port
he had his agents; he sometimes sang his poems
before an avid crowd that didn't understand
a word-afterwards, exhausted, he'd smoke a Gauloise
on a cement embankment, gulls circling above,
as if over the Baltic, back home.
Vast
intelligence. Favorite topic: time
versus thought, which chases phantoms,
revives Mary Stuart, Daedalus, Tiberius.
Poetry should be like horseracing:
wild horses, and jockeys made of marble,
an unseen finish line lies hidden in the clouds.
Please remember: irony and pain;
the pain had long lived inside his heart
and kept on growing—as though
each elegy he wrote loved him
obsessively and wanted
him alone to be its hero—
but ladies and gentlemen—your patience,
please, we're nearly through—I don't know
quite how to say it: something like tenderness,
the almost timid smile,
the momentary doubt, the hesitation,
the tiny pause in flawless arguments.
—Adam
Zagajewski
(Translated
from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB March 1, 2007
Đề tài:
Brodsky
Làm ơn ghi: sanh Tháng Năm
tại một thành phố ẩm [từ đó, mô típ: nước],
liền sau đó,
bị vây hãm bởi một đạo quân,
sĩ quan của nó, trong ba lô, đều có thơ Holderlin,
nhưng than ôi, đâu có thì giờ đọc.
Quá nhiều điều làm.
Âm điệu - mỉa mai, chán chường - chân thực.
Anh một đời rong ruổi -
từ Mexcio tới Venice,
người tình, kẻ không ngừng cổ võ cho đảng của mình
[tên là: Thơ Chống Vô Cùng
hay TCVC, nếu bạn thích viết tắt]
Tại bất cứ một thành phố, bất cứ một cảng,
ông đều có nhân viên; đôi khi ông ngâm thơ của mình, trước đám đông mù
tịt,
mệt nhoài, ông hút điếu Gauloise, [ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng
sông, mà
lòng mình phơi trên kè đá]
đứng trên con đê xi măng, hải âu vần vũ ở trên đầu, cứ
như là đang trên bờ
biển Baltic, nơi quê nhà.
Thông minh rộng. Đề tài ruột: thời gian
chống lại tư tưởng
rượt đuổi những bóng ma
làm sống lại Mary Stuart, Daedalus, Tiberius.
Thơ phải nên giống như đua ngựa: ngựa hoang, jô kề bằng đá cẩm thạch,
và đích tới là một đường không nhìn thấy, nằm ẩn trong những đám mây.
Làm ơn nhớ rằng: hóm và đau;
cái đau trụ từ lâu ở trong tim ông
cứ thế lớn mãi - như thể
mỗi khúc bi ca mà ông viết, yêu ông
ám ảnh, và muốn ông, chỉ ông thôi,
là người hùng của nó.
nhưng quí bà quí ông, xin làm ơn kiên nhẫn,
chúng ta kể như tới nơi rồi - nhưng thật khó nói:
một điều gì như là sự dịu dàng, một nụ cuời e thẹn,
một hồ nghi chốc lát, một sự ngại ngùng, một chút ngưng gọn gàng
trong dòng luận bàn không sai sót.
(1) Gấu có một bài viết, cứ ấp ủ mãi, mà không làm sao viết ra được,
cho đến
lúc thấy cái tít kỷ niệm 5 năm talawas !
Bài viết liên can đến một bài hát, Gấu nghe, lần đầu trong đời, những
ngày ở
trại lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
Chuyện Tình Buồn.
Có hai tay ca bài này thật là tới, một là bạn thân của Gấu, Sĩ Phú, và
một,
Tuấn Ngọc.
Năm năm trời không gặp,
Được tin em lấy chồng...
..
Anh một đời rong ruổi,
Em tay bế tay bồng..
Chả là, trước khi bị tóm, bị tống đi lao động cải tạo, một buổi tối,
Gấu nhớ cô
bạn quá, mò tới con hẻm ngày xưa, đứng thật xa nhìn vô căn nhà, lúc đó
cũng đã
tối, thành thử cũng chẳng ai thèm để ý, và Gấu thấy cô bạn ngày nào
đang đùa
với mấy đứa con, đứa bò, đứa nằm dưới sàn nhà, tay cô thì bận một đứa
nữa.
Cảnh này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc là lại hiện ra, ngay cả những ngày
sắp sửa
đi xa như thế này....
Thế mới thảm !
Thế mới nhảm !
Thế mới chán ! NQT
Gérard
Genette, trong Hình Tượng
I, có mấy bài viết về thơ thật tuyệt. Tin Văn sẽ giới thiệu, để
chào mừng M:
Welcome to my world: Hub Cafe -
Tecapro
Park
18A
Cộng Hòa Q.Tân Bình, từ 16.05.09.
Tuy
nhiên, cái tài thẩm thơ
của họ Đặng, theo Gấu, là nhờ trời phú.
Koestler, trong Janus, chương viết về khám phá nghệ thuật, The
dicoveries of art, cho rằng, động cơ cơ bản của một nhà khoa học sáng
tạo, the
creative scientist, là cú đột phá có tính mạo hiểm, the explorative
drive. Tuy
nhiên, ông nói thêm, nghệ sĩ lớn cũng có cái phần tử thám hiểm đó ở
trong ông
ta: nhà thơ không mầy mò với mớ chữ, như đám cà chớn thường dè bỉu, ông
ta khai
phá những tiềm năng xúc cảm và miêu tả của ngôn ngữ, the emotive and
descriptive potentialities of language… Cú khai phá có nguồn sinh học
mang tính
nhất thể của nó, nhưng nó có thể được phân bố vào những đường hướng
khác nhau.
The Ghost City [Alexandria: City of Memory]
When at the
hour of midnight
An invisible choir is
suddenly heard passing with exquisite music ....
Listen to the mystic
choir
and bid farewell to her, to Alexandria
you're losing. (1)
*
You tell yourself:
I'll be
gone
To some other land,
some
other sea,
To a city lovelier
far than
this
Could ever have been
or hoped
to be ...
There's no new land,
my
friend, no
New sea; for the city
will
follow you,
In the same streets
you'll
wander endlessly.
Cadafy
"Đời
của mi, ngay ở đây,
tại nơi chốn vất đi này, mi đã làm hỏng nó…"
"Hãy nói lời giã từ
thành phố mà mi đã đánh mất"
Chính
thành phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con
(của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants,
qui devons payer le prix.)
Sài Gòn là một máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn,
những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn
thương nặng
nề.
(Alexandrie était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en
réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous
ceux
enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với
Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Lawrence
Durrell: Justine.
Justine
ở ngoài đời, là vợ
thứ nhì của Durrell. Tên thực Eve Cohen, cư dân Alexandria, gốc Do Thái.
Michael Wood trên Điểm Sách
London, số 1 Tháng Giêng, 2009, đọc Tứ Khúc Alexandria
(1)
The God Forsakes Antony
Constantine Cavafy
Listen
When suddenly at the
midnight
hour
an invisible troupe is heard
passing
with exquisite music, with
shouts -
do not mourn in vain your
fortune failing you now,
your works that have failed,
the plans of your life
that have all turned out to
be illusions.
As if long prepared for
this,
as if courageous,
bid her farewell, the Alexandria that
is
leaving.
Above all do not be fooled,
do not tell yourself
it was only a dream, that
your ears deceived you;
do not stoop to such vain
hopes.
As if long prepared for
this,
as if courageous,
as it becomes you who are
worthy of such a city;
approach the window with
firm
step,
and listen with emotion, but
not
with the entreaties and
complaints of the coward,
as a last enjoyment listen
to
the sounds,
the exquisite instruments of
the mystical troupe,
and bid her farewell, the Alexandria you
are
losing.
[translated from the Greek
by
Rae Dalven]
“Fortune
and Antony
part here; even here / do we shake
hands”
- William Shakespeare, Antony
and Cleopatra,
IV.12
We all know, or think we
know, when the Fates turned against Antony.
The coast off Actium, Cleopatra’s
ships
retreating into the fog, taking his hopes with them. It’s an incredibly
dramatic
moment: a betrayal at once political, military and personal; a battle
whose
outcome will set the course of Roman history for decades to come,
prompting no
less a poet than Virgil to place it at the very center of Aeneas’
shield.
It is characteristic of
Cavafy that he turns away from this grand scene, and chooses to focus
instead
on a quieter, more meditative moment, replacing public abandonment with
private
self-knowledge, the cry of arms with the piping of an “invisible
troupe”. This
is the true defeat of Antony, the moment when he faces the truth about
the
future, walking up to it the way one walks up to a window and looks
out.
Everything that has gone before has led to this, everything that is yet
to come
will follow, it is here, in the quiet of the Alexandrian night, that
the break
is made.
Paradoxically,
that break is
also the acme of Antony’s glory, the
point at
which, by accepting the inevitable, by not stooping to vain hopes but
acting
“as if courageous” (such a beautiful phrase!), that Antony truly becomes
heroic, takes on
all the
Sisyphean dignity that a mortal can
claim. It is by breaking free of History that we become individuals.
That is
why Antony,
with no god to support him, is more real a champion to us than a
thousand
Octavians.
Not
that Antony
is the first hero to be forsaken by
the Gods. On the contrary, in recognizing that the beloved city is lost
to him,
and that he must play his part out to the bitter end, he becomes the
poetic
successor of Hector and Turnus. Cavafy understands better than anyone
the stuff
that myth is made of, the creed of tragedy and its heroes, and deploys
that
knowledge here to devastating effect.
This
is an incredible poem -
a testament to the simplicity of perfection that is the mark of true
genius.
It’s not just his talent for melancholy, his ability to bring history
to life,
to make us inhabit the myth, his knack for honing in on the one
critical
moment, or even the exquisite craftsmanship with which, for example, Antony’s doubts
and
weaknesses are laid out for us by a kind of verbal reflection, that
make Cavafy
a great poet. It’s the way his poems, this one included, move off the
page in
two directions at once: the first horizontal, making us think of the
before and
after of the story the poem is taken from; the second vertical, leading
us into
the land of metaphor, where Antony’s Alexandria can
be lover,
ambition or life itself.
Joseph
Brodsky writes:
“Cavafy
did a very simple
thing. There are two elements which usually constitute a metaphor: the
object
of description and the object to which the first is imagistically, or
simply
grammatically allied. The implication which the second part usually
contains
provides the writer with the possibility of virtually endless
development. This
is the way the poem works. What Cavafy did, almost from the beginning
of his
career as a poet, was to jump straight to the second part: for the rest
of that
career he developed and elaborated upon its implicit notions without
bother to
return to the first part, assumed as self-evident.”
This
is the real magic of
Cavafy, the reason his poems can seem so rich in wisdom. “Heard
melodies”,
Keats reminds us, “are sweet, but those unheard /are sweeter” . By
leaving his
metaphors unheard, Cavafy allows us to populate them with our own
imagination,
our own emotion, our own memories. By simplifying the historical to its
most
basic components, by stripping it down to the universal, to the poetic
(for
what is poetry, in the end, but our shared imagination), Cavafy makes
it
possible for us to see the myth in our own terms, apply it to our own
lives.
And that, after all, is what myth is for.
Nguồn
net
Saving all
my love for you
[I find the
reflection of me in that piece, somehow. CM]
This
is for
your beloved SG:
Vừa biết dấu yêu
[Phố
của ta,
thư này ta gửi riêng người. CM]
Tks.
NQT
Họ vẫn còn
và Em vẫn còn
và viết cho
những ai nữa…
MT
có những đầy
vơi trên cốc rượu
có trắng một
màu tuyết với đông
có dáng ai
ngồi chân chữ ngũ
đậy chặt nút
chai rượu với người
CT
có lá rơi đầy
không thứ tự
có vàng ươm
đẫy những mùa thu
có đôi chân
cũ xào xạc cũ
nhốt tiếng
dương cầm trong ngón tay
TTT
có hoa có cỏ
và lệ đá
có tiếng
xuân về gọi vang vang
có ai về
gióng hồi chuông mới
khép lại một
lần với lưu vong
DT
có đen có trắng
không hơn kém
có bóng hạ mềm
rũ trên môi
có bàn chân
sỏi đều trên cát
ngày tắt
trên nền khung vải đen
Và Em
có tháng năm
già hơn tất cả
có em độ lượng
với thời gian
có bờ ngực dậy
cho tôi thở
những biến
thiên thầm cõi ba sinh
Đài
Sử
Note:
Tuyệt
cú. Thần cú!
Bài thơ nào ứng
với ông nấy. Nhưng tuyệt nhất, là khúc sau cùng:
Có tháng năm
già hơn tất cả.
Câu này làm nhớ Brodsky:
Bao thơ tôi,
ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my
poems are more or less about the same thing – about Time. About what
time does
to Man."
Joseph
Brodsky.
*
Thời
Gian Lớn Hơn Không Gian.
Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian
Thơ Lớn Hơn Văn
“Nói
cho cùng, bài hát là thời gian được tái cấu trúc”, "Song
is, after all, restructured time", như Brodsky viết, trong
bài về nhà thơ Osip Mandelstam. Hay giản dị
hơn, khi nói về nhà thơ Anh, Auden, “cái kho thời gian”, “a repository
of
time”. Và nếu ngôn ngữ sống nhờ nhà thơ, vậy thì liệu, “thời gian”
sống, nhờ
thi sĩ, trong thơ của người đó?
Theo cách đó, để xứng đôi vừa lứa với thời gian, thơ nên cố bắt
chước cho được giọng đều đều cùa thời gian. Cố làm sao giống như tiếng
đồng hồ.
Tiếng nói “rất, rất” Brodsky, do đó, hầu như không nghe được, inaudible:
I am speaking to
you,
and it's not my fault
if you
don't
hear. The
sum of days, by slugging
on,
blisters
eyeballs;
the same goes for vocal cords.
My
voice may be
muffled
but, I should hope, not nagging.
All
the better to
hear
the crowing of a cockerel, the tick-tocks
in the
heart of a
record, its needle's patter;
all
the better
for you
not to notice when my talk stops,
as
Little Red
Riding
Hood didn't mutter to her gray partner.
("Afterword",
1986).
Tôi đang nói với anh, nhưng không phải lỗi tôi,
nếu anh không nghe được. Những tháng ngày vật vã làm sưng phồng mắt
bạn,
thì cũng như thế,
là những thanh âm.
Tiếng nói của tôi có thể được tiết giảm,
Nhưng tôi hy vọng,
Nó không trở thành lầu bầu.
Còn hay hơn, là nghe con gà sống gáy [Đường ra trận mùa này đẹp lắm!],
tiếng tích tắc của trái tim cái dĩa, tiếng lải nhải của cây kim
hát. [Mặt trời chân lý chói qua tim!].
Còn hay hơn cho anh, chẳng thèm để ý, tôi ngưng từ lúc nào.
Như Cô Bé Quàng Khăn Đỏ không thèm thầm thì với đồng chí chó sói
xám.
Tiếng nói của thi sĩ, cho dù đã tiết giảm, nghe thoang thoảng, nhẹ
hơn cả tiếng chim hót, nhưng “ầm ầm” [sonorous] hơn tiếng kèn đồng của
tên xung
phong, như được diễn tả chi li trong bài thơ “Comments from a Fern”
(1989).
“Ầm ầm sóng vỗ chung
quanh chỗ ngồi” [Nguyễn Du]: Những tiếng sóng
ngầm này xóa sự khác biệt giữa âm thanh và im lặng, tới thật gần với
nhịp thời
gian, và nhà thơ có thể làm được điều này, với sự trợ giúp của vận luật
[meter]. Khi Brodsky nhấn mạnh sự quan trọng của những thể thơ cổ điển,
ông
không chỉ là một người bảo thủ, nhưng ông làm điều này với niềm tin vào
chức
năng kép của chúng: như là phần tử cấu tạo và như là một tên gìn giữ
văn minh.
Khẳng định giá trị tuyệt đối về thể văn thể thi, điều này chủ yếu không
phải là
một vấn đề liên quan tới thể thơ, nhưng đây là phần quan trọng của điều
mà
Brodsky gọi là triết học của văn hóa.
Nghĩ theo dòng
Joseph Brodsky làm thơ ở quãng đời đẹp nhất của ông, và lịch sử việc
in thơ ông phản ánh hệ thống chính trị mà ông trưởng thành từ đó. Những
cuốn
thơ đầu của ông, do bạn bè hoặc những người yêu thơ ông ở Tây Phương,
tuyển chọn
và xuất bản. Chúng đều bị cấm đọc tại quê hương ông. Tại Liên Bang Xô
Viết, tập
thơ đầu của ông chỉ được xuất bản sau khi ông được Nobel. Sau khi chế
độ độc
tài Cộng Sản sụp đổ vào năm 1991, thơ ông mới được xuất bản đầy đủ [in
full
scale].
Một trong những hậu quả của tư tưởng của ông, rằng, một con người
chỉ có đi, khởi từ đầu một con đường một chiều, là, ông chẳng bao giờ
trở về
quê hương. Cách ông suy nghĩ, và hành động, là trực tuyến, thẳng một
lèo, như
người Việt mình nói. Từ tuổi ba mươi hai, ông đã là một “nomad” [một
tên lang
thang, một kẻ du mục] - một người hùng của Virgil, bị số phận trù ẻo:
Đi mà đừng
bao giờ mong, có một ngày trở về.
Khi được hỏi tại sao không trở về, ông nói, ông không muốn thăm
quê hương như một khách du lịch. Hay là, ông không muốn về thăm quê
hương mà lại
phải xin xỏ cái đám khốn kiếp đó. Cho dù là đám khốn kiếp đó ngỏ lời
mời.
Luận cứ sau cùng của ông là:
Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó.
Rồi.
Thơ Của Tôi.
Nhà thơ nổi loạn
Có em độ lượng với thời
gian.
Có bờ ngực dậy cho tôi thở.
|
|