|
Đọc muộn
Tôi Cùng
Gió Mùa
Borges
có một câu trứ danh,
Mọi bài thơ, đúng lúc [tới điểm cực khoái, hay cực khổ của nó?], biến
thành bi
khúc.
Every poem in time becomes an elegy
Borges: Possession of Yesterday [Sở hữu Ngày hôm qua]
Câu này mà áp dụng cho bạn ta thì thật tuyệt:
Và còn có thể áp dụng chung cho mọi bài thơ "in time" của Miền Nam
sau 1975.
*
Trong bài nghiên cứu dài thòng, "Borges
và Nghệ Thuật Tưởng Niệm" (1), Thomas H. Ogden, M.D. đã dựa
vào
hai bài thơ xuôi của Borges, cả hai đều được viết sau khi ông gặp hai
mất mát
lớn lao trong đời, và từ đó, đề nghị:
Cái sự tưởng niệm hết đỗi bảnh kia [tác phẩm "Pierre Menard, Author of
the
Quixote" [1941], và "Borges và Tôi" [1941], chúng xoáy vào một
yêu cầu mà chúng ta tự hứa với chúng ta, làm sao tạo ra được một điều
gì đó -
hoặc một hồi nhớ, một giấc mơ, một câu chuyện, một bài thơ, một đáp ứng
cho một
bài thơ, và cái một điều gì đó này sẽ được đẻ ra, sao cho xứng đáng,
sao cho
ngang bằng với cái mất mát khổng lồ kia, hoặc có liên quan tới nó, hoặc
đây
chính là, kinh nghiệm, chính sự mất mát.
(1) Bài viết này, Gấu có. Bi giờ, ai muốn đọc, là phải chìa đít
[credit] ra!
Trong
bài đọc Chuyện Kể Năm 2000, khi
thiên
hạ khen um lên, một tuyệt tác, Gấu này đã lên tiếng, cảnh báo, coi
chừng, coi chừng,
dựa theo Walter Benjamin, khi ông phán, "Mọi tài liệu về văn minh đều
là
một tài liệu về dã man".
Và từ đó, có vẻ như mấy ông Hàn [đã thấm đòn của Benjamin?, hay của
Gấu, khi
lập lại?], bèn thay đổi hẳn cách cho Nobel.
Và Gấu bèn gật gù, đi một đường ngợi khen, chỉ có mấy năm gần đây thôi,
Nobel
mới xứng đáng là giải thưởng văn học số 1 trên thế giới.
Trước đây, Nobel được trao cho những tác giả có những thành tựu khổng
lồ, suốt
đời... Bi giờ, bạn chỉ cần một tác phẩm hách xì xằng, và tác phẩm hách
xì xằng
này, khi được viết ra, cũng chẳng để vinh danh tập thể, đám đông, nhân
loại...
Cao Hành Kiện là một ví dụ tuyệt vời: Lịch sử một cá nhân chống lại
lịch sử cả
một lũ, cả một cộng đồng, cả một dân tộc.
*
Và từ đó, Gấu phân biệt ra được, có một khoảng cách rất lớn giữa tác
phẩm người
tù của Bùi Ngọc Tấn, và của những sĩ quan Ngụy cải tạo như Nguyễn Xuân
Thiệp,
Thanh Tâm Tuyền.
*
Sự tương phản càng nổi bật, khi so sánh những dòng thơ của một "ngục
sĩ"
Nguyễn Chí Thiện – mộc mạc, chơn chất - với những dòng thơ của một sĩ
quan cải
tạo như Nguyễn Xuân Thiệp trong "Tôi Cùng Gió Mùa". Như "hắn"
và ông Thanh Vân, ‘mỗi người một mặt bằng khác nhau’, số phận của
Nguyễn Chí
Thiện nghiệt ngã hơn nhiều: ông từ chối những chói lòa của thơ văn cách
mạng,
từ chối làm cai tù, chấp nhận làm ngục sĩ liên miên. Ông đâu biết trút
nỗi đau
của ông vào đâu, nên đành cứ nhè ông Hồ mà "vạc", nhè chế độ mà
"chửi", rồi quăng vào tòa đại sứ, hy vọng những lời chửi của ông vọng
tới thế giới bên ngoài. "Tã trắng thắng cờ hồng", một ẩn dụ thơ như
thế là từ đời sống mà ra. Hy vọng "tã trắng thắng cờ hồng" của ông,
là trông vào một Miền Nam
ông chưa từng biết tới. Hãy nhớ lại nỗi đau của ông, khi nghe tin Miền Nam
thất trận.
Còn
những dòng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát của Nguyễn
Xuân Thiệp, là do đằng sau ông có cả một đồng đội, cả một chân lý, lẽ
phải, chính
nghĩa mà chỉ khi vào tù ông mới có được. (Hãy nhớ lại giấc mơ của "nhân
loại", khi Cộng Sản Miền Bắc còn che giấu được mục đích chiếm đoạt Miền
Nam,
bằng cuộc
kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền: Mơ sáng
ngủ dậy,
thấy biến thành người Việt!)
Văn
nào, thơ nào? Ngay cả những dòng thơ của Paul
Celan mà còn bị lạm dụng. Nhưng đây không phải lỗi của ông, như nhà thơ
Auden
đã từng nói: "Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm, thơ của mình bị
người đời
sử dụng như là một trò phù thuỷ." Bài thơ "Điệu Tango của Thần Chết"
của Celan, sau chiến tranh, đã đem đến cho người Đức một niềm khuây
khỏa lớn
lao, kỳ diệu, chẳng thua gì câu chuyện "khôi hài đen", một nghệ thuật
lớn vốn thịnh hành cùng lúc đó: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha
thứ
cho người Do Thái về Auschwitz!". Chính vì thế, mà Adorno cảnh cáo
tiếp:
Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ
thơ, phổ
thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự huyền
nhiệm, về
một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng
vấn G.
Steiner). Đây cũng là lý do tại sao những vần thơ mộc mạc của Nguyễn
Chí Thiện
vẫn chuyển tải được Cơn Kinh Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực
tại
Việt Nam:
Còn Đảng là còn Khổ,
Hết Đảng là có Phở!
Đọc muộn thơ bạn
Tôi Cùng Gió
Mùa
Tôi
Cùng Gió Mùa, in dưới bảng hiệu nhà xb Văn Học.
Khi đó Gấu làm công cho NMG, ông bèn thẩy cho một cuốn.
Thành thử chẳng có lời đề tặng.
Nhưng cái duyên văn nghệ nó lại mắc mớ đến tờ VHNT của PCL, mà trụ sở
của nó ở Texas.
Lần bà chủ báo lấy chồng, có mời vợ chồng Gấu.
Bèn quyết định đi dự, nhân tiện gặp NXT luôn. Khi đó anh làm một tờ báo
văn học
[Phố Văn?] và Gấu có gửi bài đăng.
Nhưng chuyến đi phải huỷ, vào phút chót, vì cái dịch cúm gà cúm vịt gì
đó, phát
tác tại thành phố Gấu đang ở.
Đi, chẳng lẽ mang virus theo, gieo họa cho bè bạn ?
Giả như trong đám cưới, có người biết, trong số khách mời có người đến
từ
"thành phố bị vây hãm", làm sao họ dám tới dự?
*
Vì vậy, gọi là bạn, cũng hơi cường điệu.
Nhưng thực sự, Gấu tin, NXT coi Gấu là bạn.
Ấy là vì một cái thư anh gửi, cám ơn, khi nhận được cuốn sách Gấu gửi
tặng. Lời
lẽ trong thư khiến Gấu tin như vậy.
*
Bạn văn. Dựa hơi bạn bè.
Sao nghe cứ ra dựa lưng nỗi chết?
Tình trạng của Gấu mới thảm. Hồi mới lớn, mê văn chương, chưa ghê bằng
mê bạn.
Hoặc hai cái mê đó là một.
Thế rồi, gặp thảm họa, rớt xuống bùn đen. Mấy ông bạn quí mừng quá!
*
Cái cay đắng của mấy đấng bạn thân, bạn quí, bạn hiếm của Gấu, về già
Gấu hiểu
ra được, nhân một ông cũng tốt nghiệp cử nhân triết, Đại học Văn Khoa
Sài Gòn,
phán, Gấu không phải thuộc lớp khoa bảng [như ông ta?].
Đó là do họ đều học triết, và đều nghĩ, chỉ có họ mới có quyền nói về
triết, về
hiện sinh, về phận người, về Camus, về Sartre...
Mấy ông Mít học trường Tây, thì lại nghĩ khác: Mày có biết tiếng Tây
không đấy,
mà đòi đọc?
*
Ông anh nhà thơ của Gấu chẳng đã từng thực sự ngạc nhiên, khi nghe Gấu
nói, mê
cuốn Buồn Nôn của Sartre, và đã từng bật cười khi nghe thằng em hét: Sẽ
viết về
thơ của ông anh.
-Ừ thì viết đi!
Nhưng với ông, là vấn đề 'ngộ' hay không 'ngộ', một tư tưởng triết học.
Một cõi
thơ.
Hiểu, với ông, có nghĩa là đốn ngộ, là... mặc khải!
*
Thành thử, về già, gật gù nói, thằng đó bạn tao, nó khác rất nhiều, so
với khi
còn trẻ.
*
Trở lại chuyện tra từ điển.
Nhà văn Lâm Chương có lần cho biết, ông không biết nghĩa của từ hận
thù, cho
tới khi đi tù VC.
Cũng theo ý đó, Léon Bloy viết:
L'homme a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et
où la
douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến
khi đau
thương tiến vào. Và tạo ra chúng.
[W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim:
Về
Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the
Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis, trong "Lịch sử
tự
nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb
Vintage
Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức].
Oanh kích vs Pháo
kích
Câu
của Bloy, ứng vô trường hợp của Gấu. Có tí khác:
Có những kỷ niệm, hồi ức, mà bạn quên hẳn chúng, chỉ tới khi đau thương
bất ngờ
thọi cho bạn những cú chết người, và làm bật chúng ra!
*
Paul Eluard: Nhà thơ phải là công dân có ích nhất trong tập thể của
y. Thơ
không phải một đồ mỹ thuật nhưng là một đồ vật hữu dụng. Thơ thành ra
cách bài
trí…Thơ giao tranh để đoàn kết mọi người.
Nguồn
Thú
thực, Gấu rất ớn những câu phán vô tội vạ như thế
này. Bởi vì không có nguyên tác đi kèm, thành thử, không làm sao kiểm
chứng
được. Tin Văn luôn cố làm sao, có ngay kèm câu tiếng Việt, nguyên tác,
hoặc một
bản dịch, không phải tiếng Việt, của nó.
Những từ đáng ngờ ở trong câu trên là "công dân có ích nhất trong tập
thể
của y", "thơ là đồ vật hữu dụng... Thơ giao tranh..."
Quái đản quá!
Tuy
nhiên, Gấu post lại câu trên, là vì nó có liên
quan tới bài viết, về thơ của NXT.
Thảo nguyên vs Trại tù.
*
Since
its publication, in 1923, “The Prophet” has sold
more than nine million copies in its American edition alone. There are
public
schools named for Gibran in Brooklyn and Yonkers.
“The Prophet” has been recited at countless weddings and funerals.
Kể từ khi được xuất bản vào năm 1923, Nhà Tiên Tri bán được hơn 9 triệu
cuốn,
chỉ tính phần Mẽo in mà thôi. Có những trường công lập tên Gibran ở khu
Brooklyn, và Yonkers.
Nhà Tiên Tri được hát lên ở những đám cưới, và khóc lên ở những đám ma.
*
Ui chao, Tôi cùng gió
mùa thật xứng đáng,
hoặc hát lên, hoặc khóc lên, y chang! Với, chỉ người Việt hải ngoại mà
thôi.
Nhưng, ở trong nước, có thể ngược lại: Hát lên ở đám ma, và khóc lên, ở
đám
cưới!
Mấy anh VC bốc phét, cú Xô Viết Nghệ Tĩnh là Tổng Diễn Tập cho cú Cách
Mạng
Tháng Tám; Tết Mậu Thân, Thực Tập Lớn cho Đại Thắng Mùa Xuân 1975.
Giả như học tập tốt, lao động tốt, thực hành tốt, bài bốc phét trên,
chúng ta
có thể coi Tôi cùng gió mùa, Thơ ở đâu xa, cái mầm của chúng là
từ khí
hậu Miền Nam?
Rằng: Chỉ có một cuộc sống như thế, thì, khi gặp hiểm nguy, thì, mới có
cứu
rỗi?
Đúng như thế. Đây đúng là ý của Holderlin, khi phán:
Nhưng chỉ ở nơi mà có hiểm nguy,
Thì chính ở đó, có cứu rỗi.
"Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve"
Những "où", những "là" đó, là nói về, chỉ một nơi chốn.
Bởi thế, mà Heidegger, trong "Tại sao thi sĩ, trong thời điêu đứng?",
coi Rilke là thi sĩ của đêm đen, của mạt kỳ, của thời điêu đứng.
Chỉ có triết gia, thì mới lèm bèm về thơ, tới chỉ, và chỉ có Heidegger,
với
kinh nghiệm, đã từng phò Nazi, thì mới phán về thơ thời mạt kỳ, tới
chỉ. Bài
"Tại sao thi sĩ trong đời điêu đứng?", quả là bảnh nhất trong những
bài phán về thơ, và nhất là, thơ tù.
*
Giả như không có những ngày tháng điêu đứng, cay nghiệt đó, liệu anh có
yêu em
nhiều như vậy không?
Cầm Dương
Xanh
Đọc muộn thơ bạn
Tôi Cùng Gió Mùa
Lukacs, trong
Lý
thuyết về Tiểu thuyết (1916), coi lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi
Hy Lạp
cổ. Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy Lạp trở thành ngạt thở
đối với
những thời đại tiếp theo sau nó. Đây là một thế giới khép kín. Chúng ta
không
thể thở được nữa trong một thế giới khép kín. Hùng ca Homer do đó mở
đường cho
tiểu thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của một thế giới bị thần thánh bỏ
rơi. Nói
một cách khác, tiểu thuyết bắt đầu cùng với cái chết của thượng đế.
Tiểu thuyết
bắt đầu cùng với giấc mơ của con người: tìm lại tính siêu việt đã mất.
Những xã
hội nặng chất tôn giáo không phải là môi trường thuận lợi của giả
tưởng, là
vậy. Don Quixote (của Cervantes) cho thấy một điều: thần Ky-tô đã tự ý
vắng
mặt, ra khỏi thế giới, và những cá nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý
nghĩa và
bản chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh hồn "vô gia cư vô địa
táng" của họ.
*
Heidegger, chú giải thơ Holderlin, "Tại sao thi sĩ trong thời điêu
đứng?":
Chữ "thời" [time] ở đây, là thời mà chúng ta còn thuộc về [Thời gian
của Người]. Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy
sinh của Chúa Ky
Tô đánh dấu buổi đầu của sự tận cùng của ngày của những vị thần [mark
the
beginning of the end of the day of the gods]. Đêm xuống. Kể từ đó, ba
ngôi hợp một,
"the united three" - Herakles, Dionysos, Christ - rời bỏ thế giới, buổi
chiều của thời đại thế giới cứ thế chúi vào đêm của nó. Đêm của thế
giới cứ thế
trải dài bóng đen của nó. Đó là thời đại được định nghĩa như là sự thất
bại của
thần linh đến với thế gian. Khiếm thần.
*
Đặt hai quan điểm kế bên nhau, chúng ta nhận ra một điều, dù tiểu
thuyết, dù
thơ ca, cả hai đều là để, đi tìm nhà, để mà về!
*
Thanh Tâm Tuyền, khi tưởng niệm Mai Thảo, "trốn thơ, đành làm nhà
văn", là cũng mượn ý thơ Holderlin: Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
*
Không phải tự nhiên mà Hồ Hữu Tường, thay vì đếm những giờ phút còn lại
của
mình, đã mơ tưởng Đức Phật trở lại với thế gian này.
Cioran phán:
Một khi
thần thánh hóa Lịch
Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành công, là làm cho
Thượng
Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi
qu'à
rendre Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la
liberté, trong Lịch
sử và Không tưởng, Histoire et Utopie
*
How can
one go back
To a ravaged home?
Marina Tsvetaeva: My country
Làm sao trở về, căn nhà hoang?
*
Người xa vắng biết đâu nấm nhà... mồ?
Back to Sorrento
*
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Và Holderlin, trả lời, qua miệng một người bạn của mình, nhà thơ
Heinse, là
người, mà câu hỏi đã được đặt ra:
"Những người mà, như bạn nói, những vị tu sĩ của thần rượu vang
Đi từ xứ này qua xứ nọ, trong đêm thiêng"
"But they are, you say, like the wine-god's holy priests,
Who fared from land to land in holy night".
Chúng ta muờng tượng ra cõi thơ của Nguyễn Xuân Thiệp:
Những vị tu sĩ: Những tù nhân
Trải qua đêm thiêng trong những trại tù trải dài thảo nguyên.
Đó là tại sao vào thời đêm đen của thế giới, thi sĩ nói điều thiêng.
Đó là tại sao trong ngôn ngữ thơ Holderlin, đêm của thế giới là "đêm
thiêng".
Voilà pourquoi, au temps de la nuit du monde, le poète dit le sacré.
Voilà pourquoi, dans la langue de Holderlin, la nuit du monde est la
"nuit
sacrée".
Tại sao thi sĩ?
*
Chúng ta còn gặp cả Trịnh Công Sơn, trong một đêm thiêng của Sài Gòn:
Chim
thiêng hót lời mệnh bạc!
*
Mùa hạ ta qua vùng thảo nguyên
Bước nhẹ tênh quên thời khổ hạnh
Mê con chuồn chuồn đỏ bay ngang
Thương bầy dê con trên đồi vắng
Gặp trẻ chăn bò đi hát rong
Gọi ấu thơ ta mùa hạ sáng
Đời trôi đi tưởng đời lặng câm
Bỗng tiếng đàn ai trong gió thoảng
(...) Mai mốt chị qua vùng thảo
nguyên
Như xưa một lần về quê ngoại
Ngày reo vui vườn chim bay chim
Lòng reo vui reo tà áo lụa
Chị gội đầu bằng nước hoa chanh
Hương tóc bay sang chiều vời vợi
Chị ơi mai qua vùng thảo nguyên
Mang cho em một chùm nhãn chín
Ôi tình xưa như nhãn và sen
Dẫu tình phai khi chưa kịp hẹn
tr. 63-69
... Người cư ngụ ở thi sĩ...
... L'homme habite en poète...
...Poétiquement
habite l'homme...
Holderlin
La poésie est le véritable
"faire habiter". Seulement par quel moyen parvenons-nous à une
habitation? Par le "bâtir". En tant que faire habiter, la poésie est
un "bâtir".
[Thơ chính là chỗ ở đích thực. Bằng cách nào chúng ta có được chỗ ở?
Bằng cách
xây xất. Chúng ta làm thơ như làm nhà để ở].
Heidegger: Người ở nơi nhà thơ.
Tuy
nhiên, người Việt nói "làm thơ", không ai nói "viết thơ".
Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu, trong bất cứ vị trí nào:
đi, đứng,
nằm, ngồi, thức... Thơ gặp anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày
giờ.
TTT: Thơ giữa chiến tranh và trại tù.
*
Heidegger có hai bài chú giải thơ Holderlin, bài nào cũng tuyệt vời.
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng, và Người ở nơi nhà thơ.
Chúng ta đọc thơ tù của ba nhà hiền giả, song song với hai bài viết của
Heidegger,
và song song với tư tưởng thời hiện sinh nơi lưu đầy, chốn tù đầy kia,
chính là
nơi quê nhà...
Nói đúng hơn: Thảo nguyên kia, mới chính là nhà.
Chị ơi mai qua vùng thảo nguyên...
*
Những
câu thơ không phải là tình cảm, như người ta thường nghĩ, nhưng mà là
kinh
nghiệm. (1)
Kinh nghiệm trại tù.
(1) "Car les vers ne sont pas, comme certains croient, des
sentiments[....
] Ce sont de exprériments [...]".
Rilke: Cahiers de Malte Laurids Brigge.
[Henri Meschonic trích dẫn, trong Vì Thi Tính I, Pour la poétique I]
*
Trong ba nhà thơ, ba vị hiền giả, trở về từ một cõi thật xa xăm cả về
thời
gian, lẫn không gian với chúng ta - cõi tù VC - Thanh Tâm Tuyền, tìm
thấy ở
trong cõi đó, sự "ẩn mật", lòng "không chút oán thù", Tô Thùy
Yên, hồn ma hờn tủi, khi về, tưới vài giọt rượu xuống cuộc bể dâu, nhằm
giải
oan cho nó, Nguyễn Xuân Thiệp "chẳng nói, chẳng làm gì hết.". Ông cứ
lặng lờ giữa hai vị hiền giả kia, và có lẽ đã đến lúc chúng ta lôi ông
ra, để
lên ngôi vị số 1?
*
Trong Inner Workings, tập tiểu luận, trong Hugo Claus, poet, Coetzee
viết:
Trong một trong những bài thơ sau này của Hugo Claus, một nhà thơ nổi
tiếng
bằng lòng cho một nhà thơ trẻ phỏng vấn [Gấu bỗng nhớ đến Hoàng Cầm và
cú cho
phép một nhà thơ trẻ lặn lội từ hải ngoại về châm đóm cho ông hút thuốc
lào,
quái quỉ thế!]. Sau vài điếu thuốc lào [vài ly, nguyên văn], mượn hơi
thuốc lào
[hơi men], nhà thơ trẻ bèn ra đòn:
Lúc này chỉ có hai ta, tớ hỏi thiệt anh già, cớ sao cứ ruỗi ra với đám
trẻ, với
thế giới hiện đại? Tại sao quá để ý đến những đại sư phụ đã ngỏm củ
tỏi? Tại
sao quá bị ám ảnh bởi kỹ thuật? Đừng nóng giận, cảm thấy bị xúc phạm,
nếu tớ
nói ra sự thực này: Ông có vẻ quá hũ nút [hermetic]? Lại còn nhịp thơ
của ông,
sao nó hiển nhiên quá, trẻ con quá? Đâu là triết lý của ông, đâu là tư
tưởng cơ
bản của ông, ở trong cõi khùng đó?
*
Nhà thơ già bèn đưa cái đầu trở về với thời trẻ thơ, về những ông thầy
đã chết
của mình, Byron, Erza Pound, Stevie Smith. "Lối đi đá tảng" [Stepping
Stones], ông nói.
Ông nói sao? Nhà thơ trẻ bối rối, không hiểu.
Những hòn đá làm thành những bước đi, để cho bài thơ cứ thế mà bước tới.
Anh già đẩy anh trẻ ra cửa, vừa đẩy vừa khoác lên vai nhà thơ trẻ cái
áo
choàng. Từ thềm bên ngoài, ông chỉ mặt trăng. Vẫn không làm sao
hiểu ra ý
của nhà thơ già, nhà thơ trẻ cứ ngó mãi ngón tay trỏ.
*
Ngón tay chỉ mặt trăng.
*
Cũng ý đó, Borges kể câu chuyện "Bông Hồng của Paracelsus":
"Tôi không quan tâm đến vàng. Những đồng tiền này chỉ để nói lên lòng
mong
ước của tôi được theo chân Thầy. Tôi muốn Thầy dậy tôi Nghệ Thuật. Tôi
muốn
bước kế bên Thầy, trên con đường đi tới Cục Đá."
"Con đường 'là' Cục Đá... Mỗi bước đi của bạn, là mục tiêu mà bạn tìm
kiếm."
Người đàn ông nhìn vị đại sư, giọng anh thay đổi:
"Nhưng, như vậy là không có mục tiêu?"
Nguồn
*
Nhịp thơ hiển nhiên quá, trẻ con quá, liệu chúng ta có thể nói như vậy
về thơ
NXT?
Chúng chỉ là những hòn đá tảng cho thơ và nhà thơ dạo chơi giữa thảo
nguyên,
trong cõi tù?
Liệu Nguyễn Xuân Thiệp, cũng có thể nói, như Hoàng Cầm nói, thơ tôi
không cần
thông điệp?
Và như chúng ta hiểu, chính cuộc đời của họ là thông điệp của thơ của
họ?
Với Hoàng Cầm, là thảm họa Nhân Văn. Với Nguyễn Xuân Thiệp, một cõi tù,
ở đó,
ông khám phá ra thảo nguyên?
*
Những chú giải cõi thơ của Hugo Claus, của Coetzee, xem ra, lạ thay, có
thể áp
dụng cho thơ hũ nút, trước trại tù, tức thơ tự do, của Thanh Tâm Tuyền
khi dòng
thơ này mới xuất hiện, và những dòng thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, cũng của
chính
ông, làm trong tù, và tất nhiên, cho những dòng thơ xem ra dễ dàng, trẻ
con,
của Nguyễn Xuân Thiệp.
*
Thi sĩ là người, có sống có chết, trong khi hồ hởi ca hát vị thần rượu
vang,
cảm nhận dấu vết của những vị thần đã bỏ chạy, ôm diết dấu vết còn lại
này của
những vị thần, và làm dấu cho đồng loại, hướng tới bước ngoặt.
Poets are the mortals who, singing earnestly of the wine-god, sense the
trace
of the fugitive gods, stay on the gods' tracks, and so trace for their
kindred
mortals the way to the turning.
Heidegger: What Are Poets For? [Tại sao thi sĩ, Thi sĩ để làm cái gì?]
*
Con đường của những vị thần: Con đường của những tù nhân? Đêm đen: Đêm
tù? Điểm
ngoặt: 1975?
*
Liệu có thể coi Rainer Maria Rilke, là thi sĩ của thời điêu đứng? Như
thế nào,
làm thế nào, thơ của ông mắc míu tới sự điêu đứng của thời gian? Sâu
thẳm tới
cỡ nào, thơ của ông với mãi xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ như
ông ta
đi tới nơi có thể đi?
Gọi là thời điêu đứng, thời đêm đen, không phải chỉ vì Thượng Đế đã
chết, mà
còn bởi vì những con người có sinh có tử, đếch có ý thức, không lo
lắng, có thể
nói, bất khả, về chính cái chết của chúng. Chúng đếch có, hay chưa có
tới được,
cái chuyện, làm chủ chính cái bản chất tự nhiên của chúng. Cái chết rút
dù về
cõi bí nhiệm. Sự bí mật của nỗi đau lộ ra. Tình yêu không được biết
đến, không
được học hỏi. Nhưng những kẻ có sống có chết đó, có [are] . Chúng có
[are]
trong cái gọi là ngôn ngữ [They are, in that there is language].
Heidegger: Thi sĩ để làm cái chó gì?
Tôi Cùng Gió
Mùa
Trong một bài viết,
Borges bàn về giao
tình giữa mù lòa và thơ ca, mà thí dụ hiển nhiên nhất, là trường hợp
Homer.
Chúng ta biết, ông viết, ngoài Homer, còn một tay Greek nữa, cũng mù,
là
Tamiris, mà những tác phẩm đều đã bị mất. Ông Tamiris này uýnh nhau với
mấy nữ
thần thi ca, và thua, thế là bị mất cây đàn lyre, và.. cặp mắt!
Vẫn Borges cho biết, Oscar Wilde có một giả thuyết rất ư là kỳ cục, một
giả
thuyết mà người ta coi là sai, nếu nói về tính lịch sử của nó, nhưng
thật thú
vị, về mặt trí tuệ. Thường ra, những nhà văn chỉ khoái làm cái điều mà
họ coi
là sâu xa; Wilde là người sâu xa, nhưng cố làm ra tầm phào, nhố nhăng.
Ông muốn
chúng ta nghĩ về ông, như là một tay bảo thủ; ông ta muốn chúng ta coi
ông, như
Plato nghĩ về thơ, như một "điều có cánh, thất thường, và thiêng
liêng" ["that winged, fickle, sacred thing"]. Well, cái điều có
cánh, thất thường, và thiêng liêng được gọi là Wilde đó, nói, Cổ Xưa,
The
Antiquity, hơi bị thích, cố tình, coi Homer, mù! [Chắc là theo kiểu
"Bắt
phong trần phải phong trần"?]
Chúng ta không biết, liệu có một Homer? Sự kiện, có tới 7 thành phố
giành giật,
chôm, ăn cắp, tên của ông, khiến chúng ta nghi ngờ tính cách sử tính
của ông
[his historicity]. Có lẽ, chẳng hề có, trần một Homer. Có lẽ có rất
nhiều người
Greek giấu mình dưới cùng một cái tên Homer?
*
Gấu lật lật Borges và vớ được đoạn trên, và bèn đưa ra một giả thuyết,
nhân cái
vụ ba ông hiền giả, chẳng biết ông nào số 1, số 2, số 3: Liệu sau này,
'nhân
loại' muốn, cố tình, nhập, ba ông thành một?
*
Thơ Nguyễn
Xuân Thiệp không có tiểu xảo, do đó viết về anh tuy dễ mà khó. Khó khi
trích
dẫn : thành tâm “ trích diễm ” hoá ra vô tình xuyên tạc ; tỉa
lẻ một
câu thơ hay, chứng minh được đặc sắc mà không nói lên chức năng của nó
trong toàn
bộ bài thơ và tập thơ, thì chưa trung thực.
Đặng Tiến đọc Nguyễn Xuân Thiệp.
Coetzee cũng phán như vậy, về nhà thơ Hugo Claus, dễ mà khó. Trẻ con mà
thượng
thừa.
Đưa cái nhìn nhăn nhó về chính mình, qua những con mắt chê bai, mi là
một thứ
phế thải, của những thế hệ trẻ hơn, Claus loay hoay, hì hục, manage,
tóm tắt
đời mình, những khúc, những đoạn có giá nhất của thơ ca của ông. Quả
thực, ông
cố giữ một khoảng cách với thế giới hiện đại, [tuy nhiên, bằng một cách
có ngụ
ý, so với cách mà những người chỉ trích ông nhận ra], ông ý thức nhiều
đến
chuyện, làm thế nào tác phẩm của riêng ông liên hệ tới truyền thống văn
học,
hoặc theo tính quốc gia, hoặc theo tính Âu Châu. Ông quả đúng là bậc
thầy về
thể thơ, verse form, thầy đến nỗi, ông có thể biến những truông, những
phá,
những lên thác xuống ghềnh thiên nan vạn nan thành trò trẻ con, dễ ợt,
[Gấu
bỗng nhớ đến tiếng đàn của Thánh Cô, khi đàn bản Tiếu Ngạo Giang Hồ lần
đầu, ở
cái ngõ trúc gì gì đó, khiến chàng Lệnh Hồ Xung ngẩn ngơ, và, một độc
giả mắt
xanh của Kim Dung, có thể mơ hồ hình dung ra cuộc tình sau đó. Đó mới
đúng là
phục bút!].
Thanh Tâm Tuyền cũng có cái băn khoăn, như Claus, từ khi thoạt kỳ thuỷ,
trong Tôi
không còn cô độc: Không đa đa siêu thực, thẳng từ ca dao qua tự do.
*
Trở lại với tiếng đàn của Kim Dung. Ông là bậc đại tài, khi, vào đúng
lúc bất
ngờ, ra đòn. Trong Cô Gái Đồ Long, khi Côn Luân Tam Thánh gặp Quách
Tường, đúng
vào lúc bất ngờ nhất, tiếng đàn tỏ tình bật ra. Nhưng mối tình đó, hay,
đúng
ra, cái echo của nó, phải mãi sau này, mới vọng lên, qua những tiếng
lảm nhảm
tên người đẹp, Hân Tố Tố, của hai đệ tử, còn là anh em ruột, bị tiếng
sư tử
hống của Tạ Tốn biến thành mất trí.
Kim Dung là bậc thầy, ở cái điểm, đốt lên, hai lần, một cây diêm.
Nhưng điều này thì liên quan gì tới thơ Nguyễn Xuân Thiệp?
*
Thi sĩ phải thôi đi sao?
Lần đầu
tiên, tôi ((NQT) làm
quen với G. Steiner, nhân chuyến ghé thư viện Toronto, Canada, tình cờ
cầm cuốn
Ngôn Ngữ và Câm Lặng, lật đúng bài Nhà Văn và chủ nghĩa Cộng Sản, trong
có nhắc
tới cuốn Bác Sĩ [Dr] Zhivago của Pasternak, vốn là một
trong những
cuốn vỡ lòng của tôi. Thế là photocopy ngay tại chỗ, về nhà dịch liền,
gửi đăng
trên tạp chí Hợp Lưu ở Mỹ.
*
Thuở mới lớn, tôi "mê" Roland Barthes, cách ông đặt vấn đề ngôn ngữ
văn chương, ngôn ngữ phê bình... G. Steiner mở cho tôi chiều sâu tối
đen của
ngôn ngữ, sự câm lặng:
"Thi sĩ phải thôi đi sao? Trong một thời đại mà con người bị khiến phải
thổi
kèn đồng [hãy nhớ những dòng thơ xưng tụng Stalin của Tố Hữu, chẳng
hạn], hoặc
tru tréo nỗi khổ đau của mình như sâu bọ, như lũ chuột, tiếng nói văn
chương,
thứ tiếng mang tính người nhất trong tất cả mọi thứ: liệu có còn được
không?"
(Should the poet cease? In a time when men are made to pipe or squeak
their
sufferings like beetles and mice, is literate speech, of all things the
most
human, still possible?)
*
Hai
từ thôi và sao, là của Nguyễn Tiến Văn. Hình ảnh Tố Hữu thổi kèn đồng,
thay vì
thổi ống đu đủ, cũng của anh.
Anh là người giúp đỡ Gấu rất nhiều, thời gian dịch Steiner.
Gấu tập tành dịch tiếng Anh qua tiếng Việt, bằng cách dịch Steiner và
Borges.
Ui chao, chỉ nội hai chữ đó, là đủ thấy, bản tiếng Việt, bảnh hơn rất
nhiều, so
với nguyên tác.
Nguyên tác hàm chứa trong nó, câu thơ của Holderlin: Tại sao thi sĩ
trong thời
điêu đứng?
Nhưng hai chữ thôi sao lại
qui chiếu về một giai thoại tuyệt vời, về
một thời
đại hoàng kim của thơ, thời thơ Đường, và, về một thi sĩ, Giả Đảo.
*
Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần về cái duyên nợ Steiner.
Nếu không gặp ông, chắc chẳng có trang Tin Văn.
Đi thi nhiều lần
không đậu, làm tăng ở Lạc Dương, pháp danh là Vô Bản. Thường làm thơ
than thân,
có câu: "Bất như ngưu dữ dương. Do đắc nhật mộ qui" [Không bằng kiếp
trâu dê, tối đến còn được về].
Khi ở Trường An, có lần Giả Đảo đi giữa đường, ngâm nga tìm vế đối cho
câu
"Lạc diệp mãn Trường An" [Lá rụng đầy Trường An], chợt nghĩ ra câu
"Thu phong xuy Vị Thủy" [Gió thu thổi sông Vị], thì xô phải quan Kinh
Triệu doãn Lưu Thế Sở, bị trói mất một buổi chiều. Lại có lần cưỡi lừa
ngâm
thơ, được hai câu "Điểu túc trì biên thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn"
[Chim ngủ cây bên ao, sư gõ cửa dưới ánh trăng], đang do dự không biết
nên dùng
chữ "thôi" [đẩy], hay chữ "xao" [gõ], vừa đi vừa làm điệu
bộ, không để ý đến xe của quan Kinh Triệu doãn đi qua. Chính là Hàn Dũ.
Ông Hàn
bèn dừng xe, hỏi chuyện, khuyên, nên dùng chữ "xao", rồi mời Giả Đảo
lên xe cùng lèm bèm về thơ. Thành ngữ "thôi xao" là do điển cố này.
Tương truyền cứ đến đêm trừ tịch mỗi năm, Giả Đảo đem hết thơ làm trong
năm,
bầy lên án, đốt nhang vái lạy, rót rượu đổ xuống đất, nói rằng: "Đây là
nỗi khổ tâm của ta suốt năm." Vì Giả Đảo cũng như Mạnh Giao đều có tác
phong "khổ ngâm" trong khi làm thơ nên Tô Đông Pha gọi là "Giao
hàn, Giả sầu" [Giao lạnh, Giả gầy].
Theo Trần Trọng San.
*
Giai thoại trên, tuyệt. Nhưng tuyệt nhất, là nó không có đoạn kết,
nghĩa là
chẳng ai biết, tại làm sao Hàn Dũ lại khuyên một cách rất hách như
trên?
Cái kiểu bỏ lửng như thế này, sau "biến chứng" ra thành những gì gì,
nào là liên văn bản, chẳng hề có bản văn chung quyết, văn bản mở....
Nhưng theo bạn, tại sao lại xao,
thay vì thôi?
Theo Gấu, có thể, ở đây là vấn đề âm thanh.
Nhưng nếu như thế, liệu gõ cửa mạnh quá, có làm chim sực tỉnh, mà bay
đi mất
không?
*
Nói bản văn mở thì cũng như nói, trang cuối mất, thiếu, chưa có người
viết...
Và đây chính là mật mã, password, đi vô hiện đại tính, nói theo
Steiner:
Cái bất toàn là cái hoàn hảo, tuyệt hảo.
*
Trên tờ TLS số 30 Tháng 11, 2007, Gabriel Josipovici, trong một bài
viết về chủ
nghĩa hiện đại, cho rằng, tinh thần của nó, hệ tại ở câu phán thật bảnh
của
Beckett: Té nữa. Té cho bảnh [Fail again. Fail better]. Theo
tác giả,
cơn khủng hoảng được gọi là Chủ nghĩa hiện đại, đã qua, nhưng nó để lại
một
thách đố - và một sự bực mình [an embarrassment].
Tôi
Cùng Gió Mùa
The Missing First Page: Thiếu
trang đầu
Hồ gia đao pháp,
do mất mấy trang đầu, cho nên Hồ Phỉ không làm sao thấu đáo võ công gia
truyền.
Tay
thầy lang Diêm Cơ, nhờ chôm được mấy trang đầu, thành trùm một băng
đảng.
Càn Khôn Đại nã Di, Vô Kỵ quá rành, vậy mà không địch nổi mấy vị sứ giả
Minh
Giáo, từ Thiên Trúc tới. Nhờ bị thánh hỏa lệnh vả vô mặt, để lại vết,
và Tiểu
Siêu dịch qua tiếng Tầu, chàng ngộ liền. Phần mở ra Càn Khôn Đại Nã Di,
không
được ghi trên miếng da dê, mà khắc vào mấy thánh hỏa lệnh.
Nếu cái sự đọc chẳng bao giờ chấm dứt, [no reading can ever be final],
cái bản
văn chẳng bao giờ tận cùng, thì, tất cả những ẩn dụ, là để kể, một câu
chuyện,
của thất bại đọc, theo Paul de Man: "all allegorical narratives
tell the story of the failure to read”.
*
The Missing First Page là tên một chương của cuốn
A History of
Reading, một câu chuyện về việc đọc sách, của Alberto Manguel.
Tác giả mở ra chương sách bằng một ẩn dụ Kafka.
*
Tất cả những ẩn dụ, ám dụ đều như muốn nói, rằng, cái không thể hiểu
được thì
không làm sao hiểu được, và điều này, thì chúng ta đều đã biết từ lâu
rồi. Từ
hồi BHD xưa lận. Nhưng, những vấn đề mà chúng ta phải cụng cựa với
chúng, trong
một ngày như mọi ngày, thì hoàn toàn khác. Về vấn đề này, có một ông,
có lần
hỏi: "Tại sao bướng thế? Nếu bạn chỉ việc theo đúng những ẩn dụ, bạn,
chính bạn, sẽ trở thành ẩn dụ, và bằng cách đó, giải quyết được tất cả
những
vấn đề của mọi ngày".
Một người khác nói: "Tôi đoán, đó cũng là một ẩn dụ."
Anh đầu nói: "Bạn thắng."
Anh sau nói: "Than ôi, chỉ trong ẩn dụ".
Anh đầu: "Không, trong đời thực. Nếu chỉ là ẩn dụ mà thôi, thì bạn
thua."
[Allegorically, you have lost].
*
Gấu lèm bèm theo kiểu lăng ba vi bộ, bạ đâu xâu đấy, về thơ tù, vô tình
rớt
đúng ẩn dụ Kafka, "thắng trong đời thực, thua trong ẩn dụ".
Và cái trang thứ nhất bị thiếu của cả một nền văn học Miền Nam,
chỉ đến
khi vô tù, chúng ta mới tìm thấy nó!
Cái đám bỏ chạy, cái đám hội luận, thay vì đi vô tù, tìm, [làm sao đi?]
thì lại
về trong nước, hỏi VC!
*
Đọc mấy anh hội luận, khổ cực nhất, là, cứ như bị ai xỉa xói vô mặt,
nước nhà
độc lập thống nhất, kẻ thù cũ mới, lớn cỡ nào, thì cũng làm thịt hết cả
rồi,
tuy nhà nước thắng, mà có bỏ... ai đâu? Sao không về, ôm lấy nhau, mà
hồ hởi,
mà mần thơ, mà điếu đóm, mà xưng tụng lẫn nhau?
Đang lèm bèm
về thơ, gặp bài này.
“Thôi
xin ông, ông đừng nói với ai nhé”
Gấu này sợ rằng, những trận đòn nặng nề, sau khi để lại cho đời, những
ngạo
nghễ ngất trời, Mắt trừng gửi mộng, Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm... đã
ảnh
hưởng tới thi sĩ, khiến người hơi bị rét, lạnh cẳng.
Thành thử những gì gì, về một ông đại phú Miền Nam, về "tui là người
Bạc
Liêu", là cũng do những trận sốt rét kinh hoàng những ngày Tây Tiến
thấm
vào thi sĩ, cũng nên!
*
Gấu đã từng biết một tình trạng y chang, xẩy ra cho một ông bạn cũng
thi sĩ.
Đó cũng là thái độ, cách hành xử, của thiên tài âm nhạc Nga,
Shostakovich, khi
xẩy ra vụ án Brodsky, hay khi ký tên vào một trong những lá thư chống
lại nhà
bác học Nga, Sakharov, vào năm 1973. Ảnh hưởng khốc hại đến chính ông
ta, đến
nỗi bà vợ phải viết thư năn nỉ các đồng chí lãnh đạo trong Ủy Ban Trung
Ương
Đảng, xin đừng cho tiếp tục công bố, nếu không, ông chồng bà sẽ lên cơn
đau tim
mà đi.
Hậu thế đã từng sững sờ, tự hỏi, tại sao ông ta phải làm như vậy, ở vào
cái địa
vị của ông ta?
Brodsky giải thích, thảm họa huỷ diệt cá nhân, nó biến cá nhân thành
điêu tàn,
cát bụi.
Xuân Sắc, còn đi xa hơn Brodsky, khi phán về Chế Lan Viên:
Điêu tàn ư? Đâu chỉ điêu tàn?
Bởi thế, Trần Dần mới lại càng bảnh, khi đích thân ông ta ghi lại cái
thảm họa
biến ông thành điêu tàn, thành cát bụi. Chúng ta có thể bây giờ mới
nhận ra nỗi
đau của ông, khi không hề đánh bóng Sổ Ghi, làm cho nó bớt độc, bớt ác.
*
Bằng chứng là sau năm 75 khi có dịp vào Sài Gòn thăm chị
gái, ông cũng chỉ ở
rịt trong nhà chẳng đi ra đến ngoài. Duy nhất có một lần bà chị gái ép
Quang
Dũng đi chơi phố thì ông nhất định đòi phải cải trang ăn mặc thành một
tay chơi
đất Sài Gòn rồi mới chịu bước chân ra đường. Ấy thế mà vẫn có người
nhận ra.
Lần đó Quang Dũng đứng chọn sách trong một tiệm bán văn hóa phẩm, một
người đàn
ông trung niên đi ra bỗng vỗ vai ông hỏi: “Ông có phải Quang Dũng - tác
giả Tây
tiến không, tôi nhìn giống bức ảnh trong cuốn sách ở nhà lắm”. Ông
Vĩnh
kể, không hiểu cha tôi học tiếng Nam khi nào mà ông trả lời
ngay:
“Ông nhầm rồi, tôi ở Bạc Liêu mới zô”.
Về Quang Dũng vô Sài Gòn, không đúng như ông con viết. Chứng cớ là nhà
thơ đã
đi tìm gặp một số nhà thơ nhà văn Nguỵ, trong có những người cùng quê
với ông.
Gấu có thấy hình Quang Dũng ngồi với Thái Tuấn, Đinh Cường, Thanh Tâm
Tuyền,
Trần Lê Nguyễn, trong một tuyển tập thơ, tại nhà một người quen, lần
ghé Tiểu
Sài Gòn.
Bạc Liêu thì phải
mới lên chứ sao lại dzô?
Riêng về cái vụ tiền, nếu đúng như thế, thì sợ rằng không hẳn như thế.
Nên nhớ
Tản Đà đã từng vô Nam,
gặp
một tay chủ báo [Gấu quên tên], hào phóng, móc bóp biếu hai ngàn, tiền
thời còn Tây thuộc, lớn lắm. Tản Đà
thản nhiên bỏ túi.
Trong trường hợp Quang Dũng, tôi sợ có gì hiểu lầm giữa hai bên, hoặc
do Quang
Dũng rét!
Nhận, tụi nó bắt viết tự kiểm thì cũng phiền!
*
Gấu tin rằng, ông con viết sai hoàn toàn về ông bố.
Bức hình trên chứng tỏ điều Gấu nói.
Quang Dũng phơi phới ngồi giữa một đám đại phản động, biệt kích văn
hoá, như
TTT, TLN, DQS, thì làm sao mà lạnh cẳng được!
*
Về cái vụ việc Miền Nam
trước 1975 mê thơ Quang Dũng, và câu Quang Dũng nói, đừng nói với ai
chuyện đó
nhé, Gấu chắc không có. Bức hình trên chứng minh.
Nhà thơ chắc phải cảm động lắm, và khi có dịp vào Nam,
mới đi tìm mấy ông đại phản
động, để mà ngồi chung một chiếu, chẳng những ngồi chung, mà còn chụp
hình kỷ
niệm!
Brodsky cũng đã từng nói lên cái tâm trạng của ông, khi Volkov hỏi, cảm
tưởng
của ông, khi biết Tây Phương in thơ của mình.
Cái tập thơ đó được in ở Mẽo, dưới bảng hiệu Inter-Language Literary
Associates. Lúc đó tôi đang bị đi đầy. Tôi nhớ là, khi được thả, có
người chìa
cho tôi coi. Tôi nhìn nó, mà cảm thấy ngỡ ngàng. [It was a sensation of
utter
nonsense]. Bạn biết không, nó gây cái cảm giác, như thể những bài thơ
in ở
trong đó, bị nhà nước tịch thu, trong một lần xét nhà, rồi được xuất
bản!
|
|