Mùa
Xuân đang nói về hạnh phúc
Đầu đề này mượn
nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy
hạnh
phúc làm đối tượng.
Ngoài việc hợp thời,
chữ hạnh phúc ở đây mang nội dung sâu rộng, trong đoạn kết một bài thơ
ngắn, làm
năm1977 :
Lá
non đã xanh rờn mặt đất
Mùa
xuân đang nói về hạnh phúc
Cảnh
chim bay trên sông núi lạ lùng
Giữa
ngàn cây
Gội
sương giá tình yêu đến
Hạnh phúc trên ba
tọa độ : thiên nhiên – đất nước – tình yêu. Hạnh phúc muôn đời,
trong và
ngoài lịch sử , và trong khoảnh khắc lứa đôi.
Hạnh phúc, niềm vui
riêng của từng người có lẽ cũng tùy dân tộc và thời đại. Người Việt hôm
nay,
sau những gian truân, không thể nói hạnh phúc chung chung, bình thường,
như con
người nơi khác.
*
Sau Cách mạng Pháp
1789, trên diễn đàn Quốc Dân Đại Hội, ngày 4.3.1794, Saint Just đã có
câu tuyên
bố để đời : hạnh phúc là một tư tưởng mới tại Âu châu.
Không phải
là trước đó, người Âu không biết hạnh phúc, nhưng phải đợi đến thế kỷ
18 khái
niệm này mới được phổ biến, tranh luận rộng rãi, như một đối tượng
trong đời
sống của từng cá nhân hay công dân. Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ ngày
4.7.1776 đã
đòi hỏi hạnh phúc như một quyền cơ bản của con người. Tiêu ngữ độc
lập – tự
do – hạnh phúc xuất hiện từ 1945 tại Việt Nam, phần nào cũng bắt
nguồn từ
đấy, và chữ hạnh phúc, từ đây trở thành một lý tưởng chính trị, bên
cạnh ý
nghĩa thường tình mà nó vẫn có – nhưng chỉ vài ba mươi năm về trước.
Trước đó, ta có chữ
hạnh và chữ phúc nhưng không có danh từ hạnh phúc. Cả hai khái niệm
hạnh và
phúc đều là những điều may mắn, tốt đẹp đến từ bên ngoài. Quyền họa
phúc
trời tranh mất cả (Cung Oán Ngâm Khúc) ; còn từ kép hạnh phúc
là một
cảm nhận nội tâm và chủ quan, dù cần hoàn cảnh khách quan yểm trợ. Ví
dụ ta nói
con hơn cha là nhà có phúc ; nhưng chắc gì đã hạnh phúc.
Nội hàm hiện đại
của từ hạnh phúc du nhập từ Âu Tây, qua Trung Quốc, đến Việt Nam đã
thay màu
đổi sắc. Ở phương Tây, nó thừa hưởng tư tưởng Hy Lạp và Thiên Chúa
giáo ;
đến Việt Nam nó chịu ảnh hưởng Lão Trang và Phật giáo, thêm phần hồn
hậu dân
gian.
Từ lâu đời, Đông
phương có truyền thống đi tìm
an tịnh cho tâm hồn. Thậm chí đây còn là điều cốt lõi trong hiền triết
phương
Đông.
Vào thời bình minh
của văn học nước ta, thơ văn thời Lý của các thiền sư rạng ngời hạnh
phúc, là
việc đương nhiên. Vì là thơ Thiền. Đến đời Trần, danh tướng Trần quang
Khải,
trong hai bài thơ Xuân, đã đạt tới hai câu kết : đè nghiêng
ngọn giáo
đọc thơ chơi – Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa (bản dịch Ngô Tất Tố),
chí khí
hào hùng mà thần thái thanh tịnh, có thể xem như là hình ảnh hàm súc,
uyên áo
của hạnh phúc.
Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi
là những bài ca hạnh phúc : núi láng giềng,
chim bậu bạn, mây khách khứa, nguyệt anh tam (em) ; niềm vui
của bậc
cao nhân, chan hòa trong trời đất và xã hội. Thơ chữ Hán cũng diễn tả
niềm vui
đó :
Trại đầu xuân độ
Độ
đầu xuân thảo lục như yên
Xuân
vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã
kính hoang hương hành khách thiểu
Cô
châu trấn nhật các sa miên
Xuân Diệu dịch thần
tình :
Cỏ
xuân đầu bến xanh như khói
Thêm
hạt mưa xuân nước vỗ trời
Đường
nội vắng xa hành khách ít
Thuyền
côi gác bãi suốt ngày ngơi
Bài thơ tả cảnh ông
lái đò ngày xuân, không hiện thực. Vắng khách là ông lái thất thu, phải
làm
việc khác để sinh nhai, chứ không thể gác thuyền ngủ suốt ngày. Nhưng
thơ hay,
sâu sắc vì dự phóng giấc mơ hạnh phúc của tác giả ; giấc mơ có
thiết tha,
sâu sắc mới đưa đến một nguyên tác hay như thế, hay từ hình ảnh đến
nhip điệu,
âm thanh. Và Xuân Diệu phải tâm đắc và hạnh phúc lắm mới dịch hay như
thế, nhất
là câu cuối, một chuỗi âm thanh quyện vào nhau, dìu dặt, dìu dắt nhau
đến một
chữ ngơi cuối câu, hiếm hoi, thảnh thơi, tuyệt cú. Đọc hằng
trăm trang
luận bàn hạnh phúc, không sướng bằng gặp một chữ « ngơi » nơi
Xuân
Diệu hạnh phùng Nguyễn Trãi.
Nhưng người xưa,
bên cạnh niềm vui lớn chan hòa trong trời đất, có khái niệm gì về niềm
vui
riêng lẻ giữa đôi lứa, trong gia đình, như ngày nay ta thường hiểu hai
chữ hạnh
phúc ? Nhất định là có, như khi người cung nữ sống lạnh lẽo trong
vách quế
đã mơ ước cuộc đời bình dị, nhưng đầm ấm với chồng con : lau
nhau ríu
rít còn con cũng tình (Cung Oán Ngâm Khúc, câu 296). Mỗi chữ, mỗi
chữ nôm
na, dân dã, đều gợi hình, gợi cảm, líu ríu gọi về một cảnh sống cụ thể cục
kịch nhà quê (câu 299), ngày nay ta gọi là hạnh phúc.
*
Thế hệ văn thơ được
gọi là tiền chiến quan tâm nhiều đến hạnh phúc, tiêu biểu là Huy Cận,
trong tập
Lửa Thiêng :
Hạnh
phúc rất đơn sơ
Nhịp
đời đi chậm rãi
Mái
nhà yên bóng trưa
Ong
hút chùm hoa cải.
Chỉ trong hai mươi
chữ, Huy Cận đã nói rất nhiều, dường như trọn vẹn về hạnh phúc – trước
tiên là
quan hệ êm ả với thời gian. Khổ nạn lớn nhất của người đời, và đời
người, là
niềm hoảng hốt trước thời gian, giằng xé, tàn phá, bôi xóa. Nhưng
nguyên lý của
cuộc sống, thời gian lại là yếu tố của hạnh phúc, nảy mầm, sinh lộc,
đơm hoa,
kết trái.
Về hạnh phúc, tiếng
Việt tinh vi, trong chủ quan của tôi, cùng một từ, ta nói « thung
dung »,
nghe không thong thả bằng chữ « thong dong », « tháng
ngày »
không khoan thai như « ngày tháng ».
Hạnh phúc còn là
quan hệ đẹp với không gian, tiêu biểu là mái nhà, yên và ấm dưới bóng
trưa. Và
hoa cải nữa chứ. Màu hoa tươi sáng, đơn sơ và hiền hậu trong vườn, vườn
tôi,
vườn nghèo, vào một ngày chớm đông se
lạnh. Con ong, bằng không gian và thời gian, biến nhụy hoa thành mật
ngọt, vừa là
quy luật, vừa là phép lạ.
Mật ngọt là tinh
hoa của hạnh phúc trần gian.
Mấy câu thơ này nằm
trong bài Hối Hận, không có trong Tuyển Tập thơ Huy Cận, 1986.
Thơ
tuyển, cho dù của Huy Cận, không phải bao giờ cũng hạnh phúc.
Nhà thơ Pháp Aragon
có câu thơ nổi tiếng, vì Jean Ferrat phổ nhạc : ai nói hạnh phúc,
đôi mắt
thường buồn, vì chữ hạnh phúc thường gợi lại nguồn thương đã qua,
nguồn vui
đã tắt, rười rượi âm hưởng u hoài.
Người Việt Nam, sau
hai cuộc chiến tranh dài, lại trải qua những gian nan, xiêu lạc. Nói
đến hạnh
phúc, không khỏi ngỡ ngàng. Trong chiến tranh, miền Nam cũng như miền
Bắc, giữa
muôn ngàn thất bát, bên ngoài chính kiến, hạnh phúc là gì ? Không
đặt câu
hỏi đó là bạc tình.
Nhà văn Dương thị
Xuân Quý, phóng viên chiến trường, đã hy sinh tại mặt trận Quảng Nam
ngày
8.3.1969, trước khi mất, bà còn viết : may mắn tôi được có
mặt, gặp
nhiều nguy hiểm, nhưng vui kỳ lạ. Chồng bà, nhà thơ Bùi Minh Quốc,
cùng
chiến đấu trên một địa bàn, đã có Bài thơ về Hạnh Phúc làm ngay
sau
đó :
Hạnh phúc là gì ?
Bao
lần ta lúng túng
Hỏi
nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra
Cho
đến ngày cất bước đi xa
Miền
Nam gọi, hai chúng mình có mặt
Hạnh phúc nơi đây
là thực hiện một nhiệm vụ thiêng liêng, không quản ngại an nguy cho
tính mệnh.
Một cảm xúc nhẹ
thoáng
Trong
một góc vườn cháy khét lửa na-pan
Em
sửng sốt gặp một nhành hoa cúc
Và
em gọi đó là hạnh phúc
Hạnh phúc bất ngờ,
lung linh một đóa hoa vàng, nhành hoa cúc, làm nhớ niềm vui của
Quang
Dũng, nơi một chiến trường khác, đồng bằng sông Hồng, 1954 :
Nhớ
một con đường biên giới
Nằm
chờ giặc qua
Mũi
súng kề bên cành cúc dại…
(Bài Nhớ những mùa xuân,
1954, không có trong những tuyển tập)
* *
*
Trong giai đoạn đất
nước phân chia, thơ Miền Nam ít nói về hạnh phúc, thậm chí hai chữ hạnh
phúc
cũng ít được dùng.
Du Tử Lê , khoảng
1967, bắt đầu một bài thơ :
Hạnh
phúc tôi từ những ngày nước lớn
Trời
mưa mau tay vuốt mặt không cùng
Chữ hạnh phúc ở đây
là một từ hoa, một phản cú (antiphrase) có nghĩa ngược lại, vì cả bài
thơ tả
niềm bất hạnh, đỉnh cao là hình ảnh « con dế buồn tự tử giữa
đêm sương ».
Nhưng cụm từ « hạnh phúc tôi… » nổi tiếng và gây
ấn tượng
vì Từ Công Phụng đã phổ nhạc hay, dưới tiêu đề Trên ngọn tình sầu,
1969,
làm nổi bật. Sau đó, kết thúc bài hát, nhạc sĩ láy lại ba lần « hạnh
phúc tôi …»
Nghiệm cho cùng, trong nghệ
thuật, thể hiện
được niềm đau khổ, cũng là một hạnh phúc.
Hạnh phúc, trong
nghĩa trọn vẹn của nó, là một hoang tưởng, một giấc mơ không bao giờ
vói tới,
như trong thơ Nhã Ca, thời bà còn là cô gái trẻ, khoảng 1960 :
Kỷ
niệm sầu như tiếng thở dài,
Đêm
chìm trong tiếng khóc tương lai.
Tầm
xa hạnh phúc bằng đêm tối,
Tôi
mất thời gian, lỡ nụ cười.
Đời
sống ôi buồn như cỏ khô,
Này
anh, em cũng tợ sương mù.
Khi
về tay nhỏ che trời rét,
Nghe
giá băng mòn hết tuổi thơ.
Điều đó không có
nghĩa là con người Miền Nam không biết có hạnh phúc, trong lẽ tương
đối, giữa
một xã hội bất ổn và tinh thần bất định.
Có khi con người
« lẩn trốn » như Hoài Khanh :
Người
em gái trở về đây một bận,
Con
đường câm bỗng sáng ánh diệu kỳ.
Tôi
lẩn trốn vì thấy mình không thể :
Mây
của trời rồi gió sẽ mang đi.
Thân phận, 1962
Đã xa rồi thời Áo
Trắng, tiền thế chiến, của Huy Cận :
Đôi
lứa thần tiên suốt cả ngày
Em
ban hạnh phúc chứa đầy tay.
Tiêu biểu cho thơ
Miền Nam, từ ngôn ngữ, đến tình cảm, tư tưởng có lẽ là Tô Thùy Yên,
1971 :
Biết
đã trễ nên không thèm hối hả,
Cuộc
tình này như chút đỉnh khoan dung
Của
định mệnh cũng có lần nới thả,
Hạnh
phúc này như sóng rã trên sông.
(trích từ Thơ Tình Miền Nam,
nxb Thư Ấn Quán, 2008, Hoa Kỳ,
địa chỉ tranhoaithu@verizon.net.
Thơ Nhã Ca,
Hoài Khanh, cũng vậy)
Hạnh phúc ở đây bất
ngờ, bất chợt, mong manh – là một may mắn, do một kẽ hở của định mệnh khoan
dung, nới thả.
Tôi nghĩ đây có thể
là một quan niệm tiêu biểu cho tâm trạng Miền Nam thời đó. Sau này,
trong tập Thơ
Tuyển 1995, Tô thùy Yên có bài Ánh Tàn Dư nói nhiều về hạnh
phúc :
Hãy
hạnh phúc nhất thời
Như
dấu lặng.
Hãy
hạnh phúc nhất thời
Như
tiếng mưa rào, như lời cỏ hát,
Như
ánh chớp đùa, như hạt sương gieo,
Như
gợn nước lan reo mà tự hủy
(…)
Hãy hạnh phúc nhất thời,
Hạnh
phúc mãi.
Ôi
cuộc trăm năm,
Tấm
chăn nghèo
Chắp
chằm muôn mảnh vụn.
Bài thơ không ghi
thời điểm sáng tác, nhưng theo cách sắp xếp của Thơ Tuyển, có
thể là một
tác phẩm bản lề khi tác giả sắp rời Việt Nam – mới đến Hoa Kỳ, 1993,
nghĩa là
hình thành trong nước và viết lại khi ra nước ngoài. Nói điều này để
uyển
chuyển ý nghĩa chữ « thơ Miền Nam » ở đây.
Dù sao hình ảnh
hạnh phúc, cuộc đời như « như một tấm chăn nghèo, chắp chằm
muôn mảnh
vụn » vẫn là một biểu tượng hàm súc, cảm động, giàu ý nghĩa
chung cho
cả dân tộc gian truân qua nhiều thời đại.
* *
*
Bất cứ ở đâu, hoàn
cảnh nào, thì hạnh phúc tự nó vẫn đơn sơ, như ai đó một lần đã nói.
Nhưng đơn
sơ mỗi nơi, mỗi lần mỗi khác. Luận bàn từ đông sang tây, từ cổ chí kim,
không khó.
Nói về một chùm hoa cải, một nhành cúc dại, một
tiếng mưa rào, khó hơn.
Trong định nghĩa
nào đi nữa, hạnh phúc cũng tiềm tàng một cơ bản đạo đức. Chữ hạnh, chữ
phúc của
người xưa đã vậy, ngày nay cũng vậy. Nói chung, hạnh phúc là đồng tình
giữa con
người và cuộc sống, bắt đầu từ cuộc sống của chính mình, sau đó mới đến
niềm
vui trong một nhân gian không toàn thiện, một không gian không hoàn mỹ
và một
thời gian không vĩnh viễn.
Viết về hạnh phúc,
mình phải hạnh phúc, may ra mới mang đến cho người đọc một thoáng hạnh
phúc.
Đặng Tiến
Orléans, Tết
Dương lịch, 2007
viết lại,
15-3-2010