*

























NOTHING ELSE

Friends of the small hours of the night:
Stub of a pencil, small notebook,
Reading lamp on the table,
Making me welcome in your circle of light.

I care little the house is dark and cold
With you sharing my absorption
In this book in which now and then a sentence
Is worth repeating again in a whisper.

Without you, there'd be only my pale face
Reflected in the black windowpane,
And the bare trees and deep snow
Waiting for me out there in the dark.

-Charles Simic
NYRB Jan 13. 2011

Cần Gì Nữa Đâu

Bạn bè của những giờ nho nhỏ của đêm
Mẩu viết chì, cuốn sổ tay be bé
Đèn đọc sách trên bàn
Mừng đón anh trong vòng ánh sáng của em

Anh đâu có để ý gì nhiều, đến căn nhà tối và lạnh
Có em chia sẻ sự cuốn hút của anh
Vào trang sách, lúc này, hay lúc khác,
Một câu văn thật đáng lập lại trong tiếng thì thầm

Không có em, thì sẽ chỉ có cái bộ mặt xanh xao của anh
Phản chiếu từ ô kính cửa sổ đen
Và những thân cây trụi lá, và tuyết sâu thăm thẳm
Thì đang đợi anh ở bên ngoài trời tối

**
*

BOOK 23:

ARTISTS AND MODELS

BY ANAIS NIN

February 18, 2008
To Stephen Harper, Prime Minister of Canada,
Hot stuff,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel

Dear Mr. Harper,

Valentine's Day was just a few days ago and we've had a long cold snap here in Saskatchewan-two good reasons to send you something warming.
Anais Nin-such a lovely name-lived between 1903 and 1977 and she was the author of a number of novels that remain unknown to me: Ladders to Fire, Children of the Albatross, The Four-Chambered Heart, A Spy in the House of Love and Solar Barque form a five-volume roman-fleuve entitled Cities of the Interior (1959). She also published the novels House of Incest (1936), The Seduction of the Minotaur (1961) and Collages (1964), and a collection of short stories, Under a Glass Bell. The only pleasure these have given me has been to wonder what they are about. What story would a novel called Solar Barque tell? What was the Albatross and who were her Children?
Nin is better known for her published diaries, which covered every decade of her life except the first (and she missed that one only by a year, since she started her diary when she was eleven years old). She was born in France, lived in the United States for many years, she was beautiful and cosmopolitan, and she came to know many interesting and famous people, the writer Henry Miller among them, all of whom she discussed and dissected in her diary. Her diary's importance lies in the fact that female voices have often been silenced or ignored-still are- and an extended female monologue covering the first half of the twentieth century is rare.
And Anais Nin also wrote erotica. Hot stuff. Kinky stuff.
Pages full of women who are wet not because it's raining and men who are hard not because they're cruel. Artists and Models, which contains two stories from her collections of erotic writings Delta of Venus and Little Birds, is the latest book I'm sending you. It may leave you cold, Mr. Harper, reading about Mafouka the hermaphrodite painter from Montparnasse and her lesbian roommates or about the sexual awakening of a painter's model in New York, but it bears noting that while covering our loins and our hearts with clothes is often useful-it's minus 23 degrees Celsius outside as I write these words-there is the risk that they are also hiding, perhaps burying, an essential part of us, one that does not think but rather feels. Clothes are the commonest trappings of vanity. When we are naked, we are honest. That is the essential quality of these lustful stories of Nin, embellished or wholly invented though they may be: their honesty. They say: this is part of who we are-deny it, and you are denying yourself.

Yours truly, Yann Martel

ANAIS NIN (1903-1977) was born in Paris, raised in the United States and identified herself as a Catalan-Cuban-French author. Nin was a prolific novelist, short story writer and diarist, best known for her multi-volume Diary. She was also one of the greatest writers of female erotica, and is famous for her affairs with notable individuals including Henry Miller and Gore Vidal.

Note: Ngày Tình Nhân, đề nghị đọc liền một mạch ba bài trên.

“Thèm khóc như thèm mưa/ Thịt da như gạch nỏ/Ai có về trong đêm/Thổi mưa vào áo lụa”
làm nhớ câu phán lừng lẫy 1 thời, và cũng đầy chán chường, phẫn nộ:

“Mưa không ướt đất”!

Bài thơ mới của Charles Simic, xuất hiện trên tờ NYRB mà không tuyệt sao?
Cùng số báo, còn 1 bài thơ xuôi của Rimbaud, cũng tuyệt lắm, TV sẽ post tiếp, và dịch sau.

Nhưng tuyệt nhất là lá thư gửi thủ trưởng Canada, nhân Ngày Tình Nhân của nhà văn Canada, Yann Martel.

Khi chúng ta trần truồng, chúng ta chân thật.

*
**

Ed. Alfred A. Knopf, NY, 2010

FIFTY YEARS DEEP into his career, Charles Simic has created a new category of poetry, one that is easier to describe than name: dark and irreverent, it has an abiding humor, an underlying mysteriousness if not mysticism, a deceptively plain line and diction and often a plain subject, such as a knife, a spoon, or the title subject of the poem he brought in draft form to London's class in 1995, "Official Inquiry Among the Grains of Sand."

Born in Belgrade in 1938, on the eve of World War II, Simic lived through bombings, periods of hunger, the ten-year exile of his father, and the imprisonment of his mother. "Hitler and Stalin conspired to make me homeless," he has said. Not until he was in his mid-teens was his family reunited, settling in the United States. Simic began writing poetry as a high school student in the Chicago suburbs.

One aim of his poetry, Simic says, is "to restore strangeness to the most familiar aspects of experience." To London he says that "the foundation of poetry is based on chance," and as chance can run toward violence, violence, too, is at an edge not far away. "Official Inquiry" and its grains of sand run together with a snooping seagull of "a secret government agency." But even as Simic describes line by line the making of the poem, he laughs when London suggests that he might have an overall vision. "No. No, I never had a vision," he says. "Sometimes awkwardness is inevitable and important."

Simic was still making "Official Inquiry Among the Grains of Sand" at the time of his visit. "Here's a little poem I'm working on," he wrote to her weeks earlier. "This draft will change, so I'll have another version when I come." The poem eventually appeared in his 1996 volume, Walking the Black Cat, a National Book Award finalist and one of five books of poetry he published in the 1990S. Simic, who has taught at the University of New Hampshire since 1973, became the U.S. poet laureate in 2007.

Năm mươi năm ăn nằm với thơ, Charles Simic đã tạo ra một thể loại thơ, mới, dễ miêu tả hơn là đặt tên cho nó: u tối, thiếu sự tôn kính, thường xuyên tưng tửng, bí ẩn “chìm”, nếu không muốn nói, thần bí; dòng thơ bằng phẳng đánh lừa người đọc; lời phán, và đề tài thường giản dị, như con dao, cái thìa, hay như tít bản nháp bài thơ mà ông mang vô lớp cho London coi, vào năm 1955: “Một cuộc điều tra chính thức giữa những hạt cát”

Sinh tại Belgrade 1938, đêm trước Đệ Nhị Chiến, Simic ‘đau đáu’ kinh qua bom đạn, đói khát, và 10 năm lưu vong của ông già và bà mẹ đi tù. “Hitler và Stalin, hai thằng khốn này đã âm mưu làm cho tôi thành 1 kẻ không có nhà ở”, ông đã từng nói. Phải đến khi ông được 15, 16 tuổi thì gia đình mới được đoàn tụ, và tái định cư ở Mẽo. Simic bắt đầu làm thơ khi học trung học ở vùng ngoại ô Chicago.

Thơ tôi nhắm tái lập lại cái “kỳ kỳ cho hầu hết những sắc thái quen thuộc của kinh nghiệm”. “Cơ bản của thơ dựa trên cơ may, tình cờ”, và bởi vì cơ may thường chạy tới bạo động, thành thử bạo lực thì cũng ngay mép bờ, chẳng ở đâu xa. Và mặc dù ông làm thơ từng dòng, từng dòng, khi được hỏi, liệu ông có 1 viễn ảnh lớn, bao trùm lên nó, nhà thơ lắc đầu. Nô, tớ chẳng bao giờ có một viễn ảnh. “Đôi khi, cái sự lớ ngớ thì không thể tránh được, và nó thì quan trọng”


*

TALE

A Prince was annoyed at always being occupied with perfecting vulgar generosities. He foresaw amazing revolutions in love, and suspected that his wives could come up with something better than complacency adorned with sky and luxury. He wished to see the truth, the hour of essential desire and satisfaction. Whether or not this was an aberration of piety, he wanted it. He possessed at the very least a rather broad human power.

All the women who had known him were murdered. What wanton pillaging of the garden of beauty! Beneath the saber, they gave him their blessing. He ordered no new ones.-The women reappeared.

He killed his followers, after the hunt or after drinking. -They all followed him.

He amused himself with cutting the throats of thoroughbred animals. He torched palaces. He hurled himself on people and hacked them to pieces.-The crowds, the golden roofs, the beautiful beasts still lived.

Is it possible to become ecstatic amid destruction, rejuvenate oneself through cruelty! The people didn't complain. No one offered the support of his own opinions.

One evening he was galloping fiercely. A Genie appeared, of an ineffable, even unfavorable beauty. From his face and bearing sprang the promise of a multiple and complex love! of an unspeakable, even unbearable love! The Prince and the Genie probably disappeared into essential health. How could they not die of it? So they died together.

But this Prince passed away, in his palace, at a normal age. The Prince was the Genie. The Genie was the Prince.

Wise music is missing from our desire.

-From Arthur Rimbaud's Illuminations (Translated from the French by John Ashbery)
*

Thèm khóc như thèm mưa
Tóc khô như hoa cỏ
Ai có về trong đêm
Gội dùm khu vườn nhỏ 

Thèm khóc như thèm mưa
Thịt da như gạch nỏ
Ai có về trong đêm
Thổi mưa vào áo lụa

Thèm khóc như thèm mưa
Trái tim khô mùa hạn
Ai có về trong đêm
Làm mưa rơi trên ngực

Ôi! Đêm nghiêng theo gối
Thân cong như nhánh hoa
Hồn cong như giọt rượu
Vỡ òa thành mưa sa. 

Bốn khổ thơ chót, tuyệt.

Hình ảnh "đêm nghiêng theo gối", quái làm sao, làm Gấu nhớ tới Brodsky.
Ông có câu thơ,
You will write about us on a slant, Anna Akhmatova dùng làm đề từ cho bài thơ The Last Rose

Pages full of women who are wet not because it's raining and men who are hard not because they're cruel.
Ôi, những trang đầy đàn bà, ướt không phải bởi vì trời mưa, và đàn ông, cứng không phải bởi vì độc ác!

Em đã biết tay anh chưa!
TTT

"Thân cong như nhánh hoa" thì Gấu hiểu, và tưởng tượng ra được,
nhưng "hồn cong như giọt rượu, vỡ òa thành mưa sa", hình ảnh lạ thật!

Thịt da như gạch nỏ.
Từ "nỏ" dùng đắt quá!
Làm nhớ đến những cây đóm, dùng để hút thuốc lào.

Hình ảnh “đóm nỏ hút thuốc lào”...   đưa chúng ta trở lại với bài thơ của Akhmatova, như là 1 kết thức tuyệt vời cho những dòng trên đây: 

THE LAST ROSE

You will write about us on a slant
J. Brodsky

With Morozova I should bow and obey,
I should rise with the smoke from Dido's pyre,
I should dance with Salome,
And thus be again with Joan in the fire.
Oh Lord! You see how tired one grows
Of resurrection, and dying, and living,
Take it all except this crimson rose-
Let me feel the freshness of the gift it's giving.
1962
Akhmatova

Bông Hồng Cuối

Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về chúng ta
J. Brodsky

Với Morozova tôi sẽ cúi đầu vâng lời
Tôi sẽ bay lên cùng khói từ giàn thiêu Dido
Tôi sẽ khiêu vũ với Salome
Và rồi lại bắt đầu với Joan trong giàn hỏa
Ôi Chúa ơi! Người cũng biết đấy, ta mệt đến bã người
Với ba chuyện làm xàm phục sinh, và chết, và sống,
Lấy mẹ hết đi, cha nội, trừ CM –
Hãy để cho ta cảm thấy sự mát rượi của món quà mà nàng mang tới!