Notes
|
Russia Against
Napoleon: The Battle
for Europe, 1807 to 1814. Nga chống Nã Phá Luân. By Dominic
Lieven. Allen Lane;
672
pages; £30. To be published in America
by Viking in April 2010
Mr Lieven’s work will
transform your view of 1812, especially if you have been relying on
“War and
Peace”. A landmark book, elegantly written.
Đây là một trong những sách
mà tờ Người Kinh Tế chọn, trong mục Sách của Năm, Books of the Year.
Trên tờ Điểm Sách London, số
3 Tháng Chạp 2009, có bài điểm cuốn trên.
Đọc, có vẻ như là từ trước
tới nay, mọi người đều hiểu sai về cuộc chiến đó, đúng như Người Kinh
Tế viết,
cuốn sách thay đổi cái nhìn của chúng ta về năm 1812, nhất là nếu chúng
ta
dựa vào
cuốn Chiến Tranh và Hoà Bình.
Còn một
cuốn nữa được Người
Kinh Tế chọn, cũng thú vị:
The
Secret Lives of Somerset Maugham. Những cuộc đời bí mật của
Maugham. By
Selina Hastings. John Murray; 624 pages; £25.
To be published in America
by
Random House in May 2010
William Somerset Maugham was an unhappy man and is
today a derided figure—unfashionable, unpopular and widely regarded as
unpleasant. But he is still one of the finest short-story stylists Britain
has
ever produced.
Gấu hồi nhỏ mê Maugham lắm.
Sau, mới hết mê, vì còn mê những ông hiện sinh hiện xiếc, và mê những
cuốn
sách 'đọc mà không hiểu gì cả', của nhà Minuit.
Cậu mua
chúng về để loè thiên
hạ hử?
Trần Phong Giao đã từng hất
hàm hỏi Gấu như vậy, khi thấy Gấu cầm Lịch
Sử và Ý Thức Giai Cấp của Lukacs.
Gấu nhỏ nhẹ nói, thì cứ mua,
đọc được chữ nào hay chữ đó!
Ông nghĩ Gấu tính làm nhà văn
làm dáng. Còn Gấu, nghĩ, phải đọc chúng, hôm nay không đọc được, thì
ngày mai,
ngày mốt đọc được.
Nhờ vậy, mà đọc nhiều tác giả
rất sớm. Toàn thứ dữ: Lukacs, Lefebvre, Lucien Goldmann, Sartre, Camus,
Beckett, Genette, Barthes..
Già rồi
người ta tha cho, tha hồ mà bốc phét!
*
Trần
Phong Giao rất khó chơi,
rất khó chịu, đúng như Trần Doãn Nho viết, trên Da Mầu:
Như nhiều bạn văn đã đề cập,
kinh nghiệm lần đầu gặp ông thư ký tòa
soạn này là
một kinh nghiệm khó quên: một con người khô khan, lạnh lùng, nếu không
nói là
…bất lịch sự, trái hẳn với những lời nhắn tin đầy “tình thân” trên Văn
hay
trong những lá thư gửi riêng cho người viết. Bước vào tòa soạn – thực
ra, chỉ
là một cái phòng nhỏ nằm sát lề đường, bề bộn giấy tờ, sách báo -tôi
gặp một
người đàn ông đang chăm chú nhìn lên cái bàn máy chữ nhỏ, gõ lọc cọc.
Nghe
tiếng tôi chào, người đàn ông vẫn cắm cúi làm việc, dường như chẳng hề
biết có
người đang đứng sát bên. Khi nghe tôi hỏi xin được gặp ông thư ký tòa
soạn, thì
người đàn ông đáp, trong lúc vẫn không rời bàn máy chữ “Cậu cần gặp có
việc
gì?”. Tôi nói tên, tưởng là ông sẽ ngừng đánh máy, quay đầu lui, chào
hỏi,
nhưng không, ông chỉ nói: “Thế à!” một cách dửng dưng và…vẫn tiếp tục
làm việc.
Chán nản và bối rối, tôi chào ra về. Lúc này, ông ta mới ngẩng mặt lên
nói:
“Khi nào rảnh, nhớ ghé chơi”. (Nguyễn Mộng Giác đã biến kinh nghiệm rất
chung
đó với Trần Phong Giao thành một cảnh tượng khá sống động trong “Mùa
biển động”
tập 4, chương 86.)
Tuy nhiên, như Gấu được
biết, ông cũng có một số bạn văn, mà ông rất
thân, nhưng
ngoài ra, là hết.
TPG rất ghét nhà thơ TTT,
chính là do cái vụ ông bị đá ra khỏi tờ Văn.
Gấu rất
rành vụ này, vì khi đó, Nguyễn Đình Vượng, sau khi bị TPG làm căng quá,
đành
tính kiếm người khác, mà ông rất trọng TTT, nên hỏi ý kiến TTT, về
người kế vị TPG.
TTT đề nghị bạn quí của Gấu,
ai thì mọi người đều biết!
Thành thử Gấu không tin TPG
lại quí ông bạn quí của Gấu!
Gấu vẫn còn nhớ, là TTT,
trong một lần ngồi Quán Chùa, chỉ có hai anh
em, ông
đã cho Gấu biết, về chuyện trên, và Gấu nghĩ thầm, tại sao anh không đề
nghị thằng
em!
Đùa cho dzui, vì lúc đó Gấu
cầy hai job, một Bưu Điện, một UPI, đâu còn
thì
giờ.
Những chuyện này, đúng ra
cũng chẳng nên nói ra, nhưng, nghĩ lại, cũng
nên nói
ra, vì nó là sự thực.
Nhất là sau khi Gấu đọc bài
viết của bạn quí về TPG, trên Blog VOA.
Đám nhà văn Miền Trung, sở
dĩ TPG o bế, là vì, đó là nguồn nuôi sống
báo Văn,
chứ không phải TPG khoái gì mấy ông như Trần Doãn Nho!
Gấu rất rành, "lại rất
rành", vụ này, vì đã từng bị chửi vì nó, khi
giữ mục Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề!
Ông thầy Vũ Khắc Khoan, nhận
thư độc giả, phàn nàn mục Tạp Ghi, cáu
quá, bèn
kêu Mai Thảo, ra lệnh, anh biểu thằng học trò của tui, là thằng Gấu,
mỗi kỳ
viết, là phải đi một đường về những nhà văn Miền Trung!
Gấu nghe, buồn quá, phàn nàn
với TTT. Ông nói với Mai Thảo, thà giới
thiệu
Roland Barthes còn hơn viết về câu thơ thi xã, thi văn đoàn Mũi Né, Cần
Giờ… !
Hà, hà!
Cái chuyện Gấu viết cho Văn,
là do NDT đích thân đề nghị, chứ TPG không
ưa văn
của Gấu. Khi Gấu in cuốn đầu tay, “năn nỉ” Nguyễn Đình Vượng in giùm,
TPG ra lệnh,
không. Ông còn nói thẳng với Gấu, ai thèm đọc! Gấu bỏ tiền túi in, đem
đi chào
hàng, ông Sống Mới lấy liền 300 cuốn, trả tiền liền, gần như đủ vốn in.
Kể cho
TPG nghe, ông trợn mắt, không tin. Đó cũng là nhờ một tay nhà văn lính,
rất ăn
khách lúc đó, cũng có mặt tại Sống Mới. Anh ta nói vô một câu, là xong!
*
Cuốn truyện đầu tay của tôi
là cuốn mở đầu nhà xuất bản Đêm Trắng do anh chủ trương. Thoạt tiên
"gạ" ông Nguyễn Đình Vượng, nhưng gặp Trần Phong Giao cản đường. Của
đáng tội, thư ký tòa soạn báo Văn không tin cuốn sách sẽ bán được. Tác
giả cuốn
sách cũng nghĩ vậy. Huỳnh Phan Anh "xúi", thì bỏ tiền ra in, tao làm
nhà xuất bản. Anh nhờ Nguyễn Đồng làm bìa. In 2000, đến nhà phát hành
Sống Mới,
gặp ngay Nguyên Vũ, hình như đang là tác giả có sách bán chạy nhất lúc
đó. Anh
nói vô, ông chủ mua cho 300 cuốn. Còn lại bán lai rai, cũng thu đủ vốn.
Khi đọc
tên tác giả, tác phẩm: đứng hàng thứ bẩy, trong danh sách 12 nhà văn
phản động
đồi truỵ, trên báo Tin Sáng, ngay sau khi Việt Cộng vào Sài-gòn, (đây
là danh
sách đầu tiên, sau được bổ sung thêm, thành 19, rồi cả Miền Nam, trừ
mấy anh
nằm vùng, tất nhiên), tôi sợ, (có), hãnh diện, (có), nhưng thật sự ngạc
nhiên.
Bởi vì tôi không thể tin, cuốn sách được mấy ổng chiếu cố kỹ đến như
vậy. Tôi
không tin cuốn sách còn, nếu có chăng, may ra ở trong thư viện.
Đã bao lần tôi cầu mong nó
quên tôi, như tôi quên đã quên nó.
Chợ Đũi, HPA và Gấu
*
Gấu tiện tay, vớ thêm tờ
này, của tay Cựu Trùm Maurice Nadeau. Mới đây TLS đi một đường cảm
hoài, ông bạn đồng hành tiếng
Tây này, cũng xưa rồi Diễm ơi, như ổng!
Có
bài ngắn, tuyệt: Ai là Herta Muller?
Post sau đây.
Bạn chắc còn nhớ, ai là Muller?
QUI EST HERTA MULLER?
LAURENT MARGANTIN
Stupeur à l'annonce du prix
Nobel de littéraature 2009 : on s'attendait au couronnement d'une
célébrité -
un des favoris étant une nouvelle fois l'Américain Philip Roth -, et ce
fut,
dix ans après Günter Grass et cinq ans après Elfriede Jelinek, une
femme de
langue allemande née en 1953, inconnue du grand public, à peine connue
dans son
propre pays, car elle est issue d'une minorité souabe (venue du sud de
l'Allemagne) vivant en Roumanie. Les membres du comité Nobel ont donc
choisi de
livrer une énigme au public, autant pour les lecteurs allemands que
pour ceux,
nombreux en France,
à qui les traductions de seulement trois ouvrages de cet auteur avaient
échappé.
Bien sûr, on connaît en
Allemagne l'existence de ces minorités d'origine allemande disséminées
en Europe centrale. Mais parce
qu'elles furent souvent
accusées d'avoir soutenu des dictatures complices du Troisième Reich
pendant la
Seconde Guerre mondiale, on a préféré les oublier et les abandormer à
leur
sort. Herta Müller est une rescapée de cette histoire qu'elle dut
porter
personnellement, puisque son père était membre des Waffen-SS. Sous le
régime
communiste, sa mère fut envoyée en camp de travail en Russie.
Après avoir étudié la
littérature à Timisoara,
Herta Müller a travaillé comme traductrice dans une usine de machines.
C'est
sur cette expérience qu'elle est revenue dans un long texte paru dans
le
journal Die Zeit le 23 juillet
dernier. À partir d'un dossier de la Securitate
(police secrète roumaine) retrouvé par des chercheurs en 2004, dossier
de 914
pages composé de trois volumes et intitulé « Christina », Müller
raconte
comment, pendant de nombreuses années, elle a été persécutée, jusqu'à
son
départ pour l'Allemagne de l'Ouest en 1987. Elle rétablit surtout la
vérité,
car le SRI (“Service Roumain d'Information”), qui a remplacé la Securitate de Ceaucescu et repris 40 %
des employés de l'ancienne police secrète, a effacé de nombreuses
traces
compromettantes et s'est encore occupé de l'espionner lors de ses
récents
séjours en Roumanie à l'invitation du New Europe College (NEC).
Dans ce texte intitulé « La Securitate est encore en
service »,
Herta Müller évoque les vexations et les menaces qu'elle dut subir
après avoir
refusé de travailler comme agente (ou plutôt moucharde) pour la police
secrète.
« On te noiera dans le fleuve », lui fut-il annoncé. Le lendemain de ce
refus,
elle trouva le dictionnaire dont elle se servait devant la porte de son
bureau occupé par quelqu'un
d'autre. Ne voulant pas démissionner, elle travailla plusieurs jours
dans les
escaliers, et lorsqu'elle se rendit dans les ateliers pour se
renseigner auprès
des ouvriers sur un terme technique qu'elle devait traduire, elle
entendit des
collègues la traiter de moucharde, la Securitate s'étant chargée
d'organiser
une cabale contre elle au sein même de l' entreprise où elle
travaillait. « De
passer pour une moucharde parce que j'avais refusé d'en être une était
encore
pire que la proposition de m'enroler et la menace de mort »,
écrit-elle. C'est
pendant cette période éprouvante lors de laquelle son père mourut que
Müller
écrivit son premier livre, Niederungen
(qu'on peut traduire par « Bas-fonds» ou “Dépressions”), afin,
écrit-elle, de «
s'assurer de sa propre existence sur terre ».
Elle finit par démissionner,
mais dut subir des interrogatoires lors desquels on l'accusa de se
livrer,
faute de travail, à la prostitution, et d'être un« parasite ». Les
années qui
suivirent, Müller fut toujours l'objet de filatures, notamment
lorsqu'elle
organisa un rendez-vous dans les Carpates avec la lectrice des éditions
Rowohlt
en Allemagne de l'Ouest où devait paraître son premier livre. Son mari,
l'écrivain Richard Wagner, partit tout seul à Bucarest avec le
manuscrit, elle
le rejoignit plus tard. À la gare de Brassov, deux hommes l'attendaient
qui lui
confisquèrent son billet de train et ses papiers. Elle monta finalement
dans le
train où elle retrouva les deux hommes, et ne ferma pas l'œil de la
nuit,
craignant d'être jetée du train.
En 1984, lorsque parut son
premier livre, Niederungen, où elle
évoque les conditions de vie misérables dans son village natal du
Banat, un
critique du Spiegel, Friedrich
Christian Delius, compara l'écriture de Herta Müller à celle du
Mexicain Juan Rulfo, écriture à la
fois extrêmement précise, capable d'évoquer les émotions de l'enfance
les plus
enfouies, et d'une qualité poétique rare. Dans son dernier livre, Atemschaukel (à paraître en français
chez Gallimard d'ici la fin de l'année sous le titre provisoire de Balançoire du souffle), le nouveau prix
Nobel de littérature évoque les années de camp du poète allemand Oskar
Pastior
disparu en 2006, et présente ainsi sa démarche dans un entretien
récent: « Il
faut aller si loin dans la narrration que les faits se brisent, car ils
ne
peuvent être décrits que dans leurs éléments les plus petits, dans les
détails.
Un traumatisme doit être décomposé dans les unités qui l'ont provoqué.
»+
Sinh
thời, S. Maugham là nhà
văn thành công nhất trong thế giới tiếng Anh, the Anglophone world. Vào
lúc ông chín bó, 80 triệu ấn bản những
tác phẩm
của ông được bán ra; ông rất mức nổi tiếng trong quần chúng, [a media
celebrity] và rất ư là giầu. Ông cũng sống khá nhiều cuộc đời của mình,
theo kiểu
‘under cover’, chìm, theo Selina Hastings, tác giả cuốn tiểu sử về ông,
Những cuộc
sống bí ẩn của Somerset Maugham. Ông mầy mò, tìm đủ mọi cách, để
xóa
bỏ,
erase, chứng cớ về cuộc đời riêng tư, tiêu huỷ một cách hệ
thống những
giấy tờ cá nhân, yêu cầu bạn bè đốt bỏ những thư từ, và ra lệnh cho
những người
thực hiện di chúc của mình phải làm nản lòng đám tiểu sử gia - phê bình
gia dởm
nữa - lăm le tìm hiểu, có mấy thằng cha Maugham!
Giữa đám người này kẻ
nọ, – ít ra
là ở khoảng đời trung niên của ông – ông sống như là một tay xa lánh, ở
ẩn, đếch
ưa một
ai: "Một thằng cha khó chịu", ‘an unpleasant man’, P.G. Wodehouse trả
lời
phỏng vấn,
về Maugham, vào những 1970.
Hasting xì ra một điều, “bạn quí”, firm friendship, của
Maugham, là Kenneth Clark, và miêu tả Maugham, ‘một nhân vật cực kỳ bí
ẩn’.
Christopher Isherwood gán ông với "cái bị Gladstone":
Chỉ có Thượng Đế mới biết được bên trong có cái gì”.
(Maugham nói y
chang như vậy
về Isherwood).
Ngược hẳn lại với những toan tính như trên, trong khi
viết, ông
lại tự mình tố cáo mình!
Và đây là một thứ bịnh ghiền, ở nơi ông, đúng
như ông
thú nhận: “Hầu hết các nhà văn, viết cái điều từ thua cho đến thua: tự
thuật” (1)
Miranda Carter điểm cuốn The Secret
Lives of Somerset Maugham trên tờ Điểm Sách London, 17 Dec 2009
(1)
Nguyên văn hơi khác, câu mà Gấu phóng tác, trên, cho hợp với tình cảnh
"Gấu nhà
văn":
Most of what one writes is to greater or lesser degree
autobiographical: Hầu
hết điều mà nhà văn viết, thì đều mang tính tự thuật, ít hoặc nhiều.
Về "vấn nạn"
này, ý của William Trevor, người
Ái nhĩ
lan, chuyên gia viết truyện
ngắn, bảnh nhất, theo
Gấu:
"They are my memories too, but I am not the character in the
story", Những hồi ức là của tôi, nhưng tôi không phải là nhân vật trong
truyện, William Trevor, nhà văn Ái-nhĩ-lan nhận xét về nghệ thuật giả
tưởng.
Viết,
theo ông, là nghiệp (a professional activity), tuy nhiên thành phẩm -
giả tưởng
khi chín mùi - bắt buộc phải là của riêng.
Khi dấn vào nghiệp, bạn đừng
mong trốn
thoát cái kẻ là bạn đó, cho dù bạn không hề có ý định tra hỏi về chính
mình,
cho dù bản năng cho bạn biết, rằng, đừng để dấu tay của bạn lên trang
sách chừng
nào, tốt chừng đó.
Mọi giả tưởng đều mang mầm tự thuật...
Nhập một, con người
(với những hồi ức như thế), với nhà văn, là nghiệp viết.
Ấu thời
|
|