Notes
|
Nam Le's File
Vietnamese
refugee wins Australian prime minister's award for fiction
Nam Le adds A$100,000 prize to last year's Dylan Thomas award for story
collection The Boat
'I feel like a petty thief on murderers' row' ... Nam Le
£60,000 Dylan
Thomas prize goes to globetrotting debut author
The chairman of the judges, Peter Florence, hailed Le as a "winner
worthy
of Dylan Thomas".'
'A clear eye, focused intelligence and wonderful use of words'
Thật xứng đáng với Dylan Thomas và giải thưởng mang tên ông.
Một cái nhìn trong sáng, một sự thông minh xoáy vào [đề tài], và một sự
sử dụng
tuyệt vời những con chữ.
*
HIRSH SA WHNEY
Nam Le THE BOAT 288pp. Canon
gate. £12. 9781847671608
"Ethnic
literature's hot. And important too", remarks a character in The Boat.
Nam
Le, an Australian who was born in Vietnam
and studied writing in the US,
moves beyond the confines of that kind of cultural stereotyping. His
first
short story collection takes readers to a variety of places, including Tehran, Japan
in the Second World War and Manhattan's
Carnegie Hall, some of which he has never visited.
Ron, the protagonist of a story called "Cartagena",
lives in Medellin,
Colombia,
a city ravaged by drug lords
and guerrillas. An adolescent assassin armed with Glocks and grenades,
he is in
hiding because he has failed to carry out his most recent job - the
murder of
Hernando, a former partner in crime who has gone to work with
"gringo-led
programs" that "are known to combat violence and drugs and
poverty". It is a gripping, intricately woven piece of crime fiction,
and
Le's attempt to imagine the boy's world only falls short when it comes
to
politics. The division between the do-gooder gringos and the Colombian
drug
lords lacks complexity. Another story, "Tehran Calling", is hindered
by its tendency to simplify. Sarah, a corporate lawyer from Oregon,
visits her friend, Parvin, a women's rights activist in Iran.
Seen from
the vantage point of Sarah, a typical American, the arguments between
mulllahs,
secularists and those in between seem formulaic. The story is redeemed,
however, by its depiction of the women's friendship.
Psychological insight is a hallmark of Le' s work, but he also has a
facility
for a kind of dark humour. In "Meeting Elise", the narrator Henry
Luff, a neurotic, ageing New
York
artist, is about to meet up with his estranged daughter, but first he
must see
his gastroenterologist. His day doesn't go quite as planned: he is told
he has
cancer, and his daughter refuses to see him. Luffs life, like the lives
of many
here, is blighted by disease and death and dislocated love. But it is
not
morose plot twists that give this book cohesion. The Boat is most
compelling
when a mother's enduring battle with MS, or the human effects of racial
violence, are part of the background, while teenage romance and
betrayal
deliver the drama.
Le uses carefully imagined details to conjure up distant worlds and
individuals, most poignantly in the collection's title story. Mai, a
young
Vietnamese teenager, has been sent away from her war torn home to seek
a new
life abroad. For days she hides in rat-infested boats, where she wakes
"to
the sound of wood tapping hollowly against wood". She makes it to the
open
ocean on a broken-down vessel, but a storm pushes the boat off course,
and as
supplies diminish, the dead passengers are eaten by sharks. The voyage
ends on
a note of hope conveyed with the severity that marks this collection.
Stories
like this demonstrate Nam Le's ability to use sensory experiences to
evoke the
most distant situations and show that he has a considerable talent.
TLS 10.Oct. 2008 đọc "Thuyền Viễn Xứ" của Nam Lê. Khen.
"Tôi là
nhân vật thách đố nhất của riêng tôi"
Nam
Le was born in Vietnam
and raised in Australia.
He worked as a lawyer before winning the Truman Capote Fellowship to
Iowa
Writers’ Workshop where he wrote The Boat, his award-winning collection
of
beautifully inventive short stories. The rising literary star talks to
Megan
Walsh
"Tôi là nhân vật thách đố nhất của riêng tôi"
Nam Lê sinh tại Việt Nam, và được dậy dỗ nuôi dưỡng tại Úc.
Anh hành
nghề luật sư trước khi được học bổng "the Truman Capote Fellowship"
tham dự Xưởng Viết Văn "Iowa Writers’ Workshop", tại đây, anh viết Con
Tầu, tập truyện ngắn mang chất sáng tạo tuyệt vời, được giải
thưởng
Dylan
Thomas. Ngôi sao đang lên nói chuyện với Megan Walsh, sau đây.
TLS
*
TLS là báo văn học số 1 trên toàn thế giới. Joseph Brodsky có lần cho
biết, cả
nước Nga chỉ có một dúm trên đầu ngón tay, độc giả dài hạn, trong số
đó, có Kim
Philby, sư phụ Graham Greene, gián điệp Anh phản thùng chạy qua Liên Xô.
Gấu 'đăng ký' tờ này cũng trên chục niên, cc 1997. Sắp đi, nghỉ, nhận
được
'message', mày dân "pro" rồi, đọc tiếp đi, tao chỉ lấy tiền tem thôi!
Tờ này, khi Linda Lê mới xuất hiện, đọc Vu Khống, tác phẩm của Linda Lê
được
dịch qua tiếng Anh, chê, đanh đá chẳng kém Sến Cô Nương, khi ban cho em
cái tít
thật nặng nề: Kiếm khách cho văn chương.
Nay khen hết lời Nam Le, lại đi một bài phỏng vấn thật hoành tráng.
Sau Nguyễn Ngọc Tư, là đặc sản Nam Lê! Thú vị thật.
Nam Le: Con Tầu, đứng số 3, bestseller trên toàn
thế
giới!
Bản tiếng Tây ra lò Tháng Giêng 2010
Nam Le online
Stories to Explore Someone Else’s Skin
Bản tiếng Pháp trên Books, dịch
từ bản tiếng Anh, trên The New York
Times
A World of Stories From a Son of Vietnam
Nam Le, bestseller
Hiện tượng bestseller ở
trong
nước, với Nguyễn Ngọc Tư, và ở ngoài nước, trên thế giới, đúng hơn, của
Nam Le,
theo Gấu, có thể là hồi chuông báo tử của nền văn học Bắc Kít, [lập
lại, văn học
Bắc Kít, không phải văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa], mà đỉnh cao
của nó là
chiến thắng Miền Nam, hiểu theo cả hai nghĩa, đỉnh cao và vực thẳm.
Dùng một hình
ảnh minh họa: nếu Lò Thiêu là đỉnh cao của thời kỳ Ánh Sáng của Âu
Châu, thì Lò
Cải Tạo chính là đỉnh cao của văn học Bắc Kít!
"I had
nothing but hate
in me, but I had enough for everyone.”
[As this story unfolds] it becomes a meditation not just on fathers and
sons,
but also on the burdens of history and the sense of guilt and
responsibility
that survivors often bequeath to their children.
Đám Bắc Kít không thể viết nổi những câu văn tưởng như đơn giản như
trên.
Giản dị là do chúng không hề có những cảm nghĩ như vậy. Mặc cảm thắng
trận, mặc
cảm ‘chết trong tâm hồn', đi đâu cũng vác theo mùi chiến lợi phẩm, thí
dụ, một
‘air’ nhạc TCS ‘ăn theo’, “Tôi có người yêu chết trận Pleime” làm đắng
ngắt “Đường
ra trận mùa này đẹp lắm”…
Đấy là chưa kể những chiến lợi phẩm cụ thể!
*
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
*
Cái sự băng hoại đạo đức rõ ràng
là do sự dối trá ngày nào mà ra, tìm nguồn cơn ở đâu nữa? Arendt đã
vạch rõ ra điều
này, trong “Từ dối trá đến bạo lực”. (1) Chỉ một khi dám nhìn thẳng vào
sự
thực, thì
mới có được bước khởi đầu, trong cái sự khôi phục lại niềm tin của dân
chúng, và
từ đó, mới bước tiếp được. Phải đem đến cho chủ nghĩa xã hội Mít một
cái bộ mặt
con người, thì lúc đó mới bắt đầu được.
[Chủ
nghĩa xã hội với bộ mặt
nguời, le ‘socialisme à visage humain’ là một thuật ngữ dùng trong toan
tính huỷ diệt tính phi nhân mà chủ nghĩa xã hội mang tới cho nhân loại].
Que
justice soit faite, même si
le monde doit périr.
Phải
có công lý đã, cho dù thế
giới phải tiêu táng thòng!
Không
lẽ cứ để cái thế giới băng
hoại đó còn mãi?
(1) Du mensonge à la
violence [nguyên tác tiếng Anh: Crises of the republic, Guy Durand
dịch,
nhà xb Calmann-Lévy, 1972, tủ sách Agora]
*
It will not, I
believe, be possible for European culture to regain its inward
energies, its
self-respect, so long as Christendom is not made answerable to its own
seminal
role in the preparation of the Shoah [the Holocaust]; so long as it
does not
hold itself to account for its cant and impotence when European history
stood
at midnight.
G.
Steiner. The
Passion Spent. Introduction.
Văn
hóa Âu châu chẳng thể nào có lại được nội lực, niềm tự trọng của nó,
một khi tín hữu Ky Tô chưa trả lời về vai trò phôi thai của họ trong
việc sửa
soạn Lò Thiêu, một khi chưa tính sổ với chính họ, về cái sự dối trá,
bất lực, và
ngậm miệng ăn tiền giữa đêm trường Nazi của lịch sử Âu Châu.
Sao
bac ghet talawas?
*
Những linh hồn đọa đầy của
Nam Le
Sinh
tại VN, trưởng thành tại
Úc châu, và trở thành nhà văn tại Mỹ, chàng thanh niên Nam Lê không dễ
gì để cho hoàn
cảnh khuất phục, giam giữ mình. Tập truyện đầu tay, thì cũng như thế.
Nó kéo bạn
đi khắp nơi cùng với nó, từ Medellín tới Nữu Ước, quá cảnh Hiroshima,
gặp những
cuộc đời rã rời vì lịch sử.
Con
thuyền ở trong tập
truyện đáng kể này thì chứa tới 200 người thay vì 15, lênh đênh trên
biển cả đã
hai tuần, đói, khát, bịnh, da rộp cháy vì nắng trên sàn tầu, còn ở bên
dưới thì
là cứt đái, nôn mửa; những xác chết chỉ còn da và xương thì ném xuống
biển cho cá
mập. Không có thuốc thang, nước thì chỉ còn một chút xíu dành cho người
bịnh.
Sau bao ngày trên thuyền, Mai, cô thiếu nữ nhân vật trong truyện hiểu
tại sao
cha cô, đã trải qua năm năm chiến đấu chống CS, và hai năm trong trại
cải tạo,
cố gắng sống ở trên bề mặt của những sự kiện, trong hiện tại, ngày này
tiếp ngày
khác, không nhìn về phiá sau, hay nhìn vào bên trong mình: “Bởi vì dưới
bề mặt
thì chỉ là khùng điên, hoảng loạn. Và ngày càng có thêm xác người thẩy
xuống biển, cô dặn mình chớ có nhìn theo, cố tránh đừng nghĩ, đó là
những xác
người, cố xua đuổi luôn cả nỗi xúc động chỉ muốn nhận ra những xác chết
đó là
thuộc về gia đình nào trên con thuyền. Cô tránh chúng bằng cách nhìn
vào những
sự vật ngẫu nhiên, tức thời, hiện có đó: khí hậu, ngụm sóng tới, và
thời gian cứ
thế mải miết.”
Truyện ngắn này, như nhiều
truyện khác trong Con Thuyền, tóm
lấy những con người, ở vào những khoảnh khắc cực điểm
của họ, khi đối diện với cái chết, sự mất mát, nỗi kinh hoàng (hay cả
ba), và
phải quần thảo, một mất một còn, với câu hỏi cơ bản nhất, riết róng
nhất: mi là
ai, mi muốn gì, mi tin vào cái gì. Hoặc chết trên mặt biển, hoặc bị bắn
bởi một
ông trùm ma túy, hoặc mất những người thân trong gia đình trong cuộc
chiến, những
con người của Nam Le đều bị kẹt cứng ở những ngã ba, ngã tư của định
mệnh, và bắt
buộc phải chọn lựa, hoặc cuống cuồng như một thú trước ánh đèn pha xe
hơi, hoặc
phải tìm cho ra một con đường để đối đầu và thoát ra.
Câu chuyện mở ra tập truyện, “Love
and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice,” bảnh nhất,
được kể
bởi một kẻ mang cùng tên với tác giả, và chia sẻ cùng với ông vài chi
tiết tiết
tiểu sử,
Một chiếc tầu cho Việt Nam
30.4.2009
30.4.2008:
Người xa vắng biết
đâu nấm nhà
buồn?
*
Thượng đế đã chết trong thành phố
Một ông bạn đi chợ sách cũ vớ
được cuốn La
Peau,
nhưng mất bìa, bèn gửi trang này qua, "cho đỡ nhớ Sài Gòn"!
Tks. NQT
Cái bìa, tranh Nguyễn Trọng Khôi, lái sách vượt biên mang theo cùng với
cuốn
sách, tất nhiên!
Hiện
tượng bestseller ở trong
nước, với Nguyễn Ngọc Tư, và ở ngoài nước, trên thế giới, đúng hơn, của
Nam Le,
theo Gấu, có thể là hồi chuông báo tử của nền văn học Bắc Kít, [lập
lại, văn
học Bắc Kít, không phải văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa], mà đỉnh
cao của nó
là chiến thắng Miền Nam, hiểu theo cả hai nghĩa, đỉnh cao và vực thẳm.
Dùng
một hình ảnh minh họa:
nếu Lò Thiêu là đỉnh cao của thời kỳ Ánh Sáng của Âu Châu, thì Lò Cải
Tạo chính
là đỉnh cao của văn học Bắc Kít!
"I had
nothing but hate
in me, but I had enough for everyone.”
[As
this story unfolds] it
becomes a meditation not just on fathers and sons, but also on the
burdens of
history and the sense of guilt and responsibility that survivors often
bequeath
to their children.
Đám Bắc
Kít không thể viết
nổi những câu văn tưởng như đơn giản như trên. Giản dị là do chúng
không hề có
những cảm nghĩ như vậy. Mặc cảm thắng trận, mặc cảm ‘chết trong tâm
hồn', đi
đâu cũng vác theo mùi chiến lợi phẩm, thí dụ, một ‘air’ nhạc TCS ‘ăn
theo’,
“Tôi có người yêu chết trận Pleime” làm đắng ngắt “Đường ra trận mùa
này đẹp
lắm”…
Đấy là
chưa kể những chiến
lợi phẩm cụ thể!
*
Câu
chuyện mở ra tập
truyện, “Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and
Sacrifice,” [Tình
yêu, Danh dự, Thương hại, Tự hào, Trắc ẩn và Hy sinh], bảnh nhất, được
kể bởi một kẻ
mang cùng
tên với tác giả, và chia sẻ cùng với ông vài chi tiết tiết tiểu sử: cả
hai tham
dự Xưởng Viết Iowa, [Iowa Writers’ Workshop], cả hai sinh tại Việt Nam,
và cả hai
lớn lên tại Úc châu. Những câu chuyện khác ở trong cuốn sách, tuy
nhiên, chu du
vòng quanh trái đất, chứng tỏ khả năng lạ thường của Mr. Le trong việc
nắm
bắt, len lỏi vào những đa đoan kinh nghiệm của những nhân vật của mình,
từ
một cậu bé sống tại Hiroshima trong Đệ nhị thế chiến, tới một sát thủ
14 tuổi,
sống tại những khu xóm ở Medellín, tới một học sinh trung học mê đá
banh khùng điên
tại một thành phố ven biển Úc châu. Mr. Le không chỉ làm chủ ngòi viết,
viết với
một sự thoải mái của những tác giả lâu năm trong nghề, ông còn cho thấy
sự bén
nhạy, trực giác, linh tính cao, khả năng lặn sâu trong nhân vật của
mình, để
chuyên chở những xung đột tâm lý mà những con người này trải qua, khi
họ nhận
thấy những hi vọng và tham vọng của riêng họ đụng đầu với những hoài
vọng của
gia đình, hay với những sự kiện tàn bạo của lịch sử.
Nhân danh người cha
Không nghi ngờ chi, truyện
ngắn
mãnh liệt nhất, được thực hiện tràn đầy nhất, tới bến nhất, le plus
abouti, most
fully realized, trong tuyển tập, là “Tình yêu và Danh dự”. Nó bắt đầu
bằng câu chuyện kể có vẻ tầm tầm, theo đúng truyền thống, về một nhà
văn, còn
trẻ, mới
vô nghề, đang loay hoay hì hục, đau khổ với mớ chữ của mình, và cùng
lúc, cố gắng
để đối
phó với tình huống bất ngờ, là sự viếng thăm chẳng hề mong đợi của ông
bố,
bay từ Úc tới thăm con. Người kể chuyện, Nam,
nhớ lại sự khắc nghiệt của ông,
những ngày anh còn ngồi ghế nhà trường. Ông bố không chấp nhận bất cứ
một
sự yếu đuối
nào ở nơi ông con: “Không điện thoại tầm phào, nói chuyện riêng tư.
Không bạn gái.
Không đọc sách ngoài luồng, nghĩa là, chỉ đọc những sách học!” Ông con
nhớ những
lần bị ông bố quất nát đít vì không tuân thủ “10 giờ học mỗi ngày trong
những
ngày hè”
Nam Le, bestseller
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
*
Cái tít truyện “Love and
Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:
THE
BOAT is an engaging and
free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le,
organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first
story,
"Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a
title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in
1950), a
young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just
arrived from Australia.
Nam has
settled in Iowa
to attend the renowned Iowa Writer's
Workshop.
As he struggles to meet its
creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam,
since
"ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a
license to bore. The characters are always flat, generic." It's that
last
friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the
Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian
vampires and
Colombian assassins, and Hiroshima
orphans - and New York
painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the
perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia
as he is called to task by his boss for failing to carry out an
execution. Next
comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted
painter seeking desperately to make amends with his estranged (and
engaged)
daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist.
Another
story, titled simpy "Hiroshima,"
traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the
nearby
countryside in the days immediately preceding the dropping of the
atomic bomb.
"Hiroshima" is sandwiched between two
other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian
town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran.
After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam
for his
title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and
survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in
the
Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that
has lost
its engines.
So what to make of the
metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam
succumbs to the pressure of his
writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He
interviews his father, a survivor of the My Lai
massacre, and converts this horrific story relatively quickly and
easily into
typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his
father has
read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author
discarded
ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the
first story)
for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has
he, upon
attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of
others,
returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing
story? Is
the reader intended to compare the relative merits of Nam's
own
ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at
large? Or are
we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of
the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or
escape, the
other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that
the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener
is
touching in its treatment of intergenerational relationships and
differences in
perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst,
and
death for the sake of freedom. In between, the other stories show
notable
flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia
engages the reader with anything approaching the story-telling power of
the
opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional
friend in his opening story is correct, that one writes best about what
one
knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic
literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial
talent that
promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a
future
range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to
recommend this book on its merits and also advise readers to keep a
watchful
eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*
The poet's,
the
writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor
and hope
and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the
glory of
his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can
be one
of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William
Faulkner: Nobel Prize
Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này,
cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?
|
|