*
Notes


















Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]


Biélinski, trong thư gửi Gogol, 1846, viết: … Sự cứu chuộc nước Nga hệ tại không phải nhờ chủ nghĩa thần bí, khổ hạnh, thuyết kiên tính, nhưng mà là trong những thành công của văn minh, học vấn, nhân ái. Điều cần cho nước Nga, thì không phải là những buổi thuyết giáo [thuyết giáo nhiều quá rồi!], những lời cầu nguyện [cũng nhiều quá rồi], mà là làm trỗi dậy ở trong dân chúng tình cảm về nhân phẩm, le sentiment de la dignité humaine, đã bị chôn vùi quá sâu, quá lâu, hàng bao thế kỷ, ở trong vũng lầy, đống phân, và trong sự áp dụng, càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, những luật lệ và những quyền lợi phù hợp không phải với Nhà Thờ, Luật Chúa, mà là với lương tri và công lý.
Thay vì như thế, thì là quang cảnh ghê rợn của một xứ sở, nơi con người lao vào những thương vụ béo bổ: buôn bán con người, cũng đâu thua gì đám chủ đồn điền Mẽo, khi họ tuyên bố, người da đen không phải là người; khi con người được biết tới không phải bằng cái tên mà bằng những biệt danh ti tiện: Vanka, Vaska, Stechka, Palachka; một quang cảnh, và sau cùng, một đất nước, nơi không còn một chút đảm bảo về sự toàn vẹn của cá nhân con người và những của cải của họ, một đất nước ở đó, trật tự công chúng thì không được đảm bảo bởi cảnh sát; thay vì vậy, người ta chỉ thấy những tập đoàn khổng lồ những tên ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng đóng vai công nhân viên chức. Những vấn đề quốc gia nóng bỏng của nước Nga lúc này là: bãi bỏ quyền sở hữu nông nô, huỷ bỏ những hình phạt về thể xác, và trong chừng mực có thể của nó, cố gắng áp dụng triệt để luật pháp. Nhà cầm quyền không phải không biết như vậy, và vì thế, họ đưa ra những luật lệ nửa vời, chẳng đi đến đâu, chỉ để vỗ về đám nhân dân ‘đen một nửa’, demi-nègres, của họ.
Vị thế của tôi đối với Dos thì vừa kỳ cục vừa khó chịu, curieuse et incommode. Trong tất cả những bài giảng [những bài viết ở trong cuốn Văn học/ 2 của Nabokov là những bài giảng cho sinh viên Mỹ về văn chương Nga], tôi tiếp cận văn chương theo góc độ độc nhất mà tôi thích thú: thiên tài cá nhân cưỡng lại thời gian, celui du génie individuel qui résiste au temps. Nhìn dưới góc độ đó, Dos không phải là nhà văn lớn, mà đúng ra phải nói… thực, ông là một tác giả tồi - với những loé sáng thực uyên nguyên, nhưng than ôi, thất lạc ở giữa những thảo nguyên của thứ văn chương tầm phào, nhạt nhẽo [Dos n’est pas un grand écrivain, mais un auteur plutôt médiocre – avec des éclairs de réelle originalité, perdus, hélas, parmi les steppes de platitude littéraire]… Trong Tội ác và Hình phạt, Raskolnikov giết mụ già cho vay nặng lãi và cô em gái của bà chỉ vì một lý do làm xàm, bá láp, pour une raison quelconque. Công lý, dưới con mắt của một tay cảnh sát nhà nghề, tà tà xiết những sợi dây chung quanh anh ta, và sau cùng, anh ta ‘đành’ thú tội công khai trước đám đông, và được ‘cứu vớt’, nhờ tình yêu của một bướm được trời phú cho những tình cảm cao thượng. Nhờ bướm cao thượng này mà anh ta từ từ tái sinh, đây đúng là một phép lạ, nếu chúng ta nhìn lại thời điểm cuốn tiểu thuyết được viết ra,1866: vào thời điểm đó, bướm với những tình cảm cao thượng như vậy gây sốc nặng nề ở nơi một độc giả sành sỏi, un lecteur averti.
Vấn đề của tôi [Nabokov] là, những độc giả mà tôi đề cập tới trong những bài giảng này, hay những độc giả khác, thì không phải tất cả đều sành sỏi. Tôi có thể nói, một phần ba trong số họ thì đều không rành rọt, để mà phân biệt giữa văn chương thiệt, và giả-văn chương, pseudo-littérature, và đối với họ, những tác phẩm của Dos, đâu phải thứ thường: đó là những tác phẩm có vẻ quan trọng hơn, và thuộc thứ nghệ thuật bảnh hơn, so với ba thứ tiểu thuyết lịch sử ba xu của Mẽo, kiểu Khi còn đàn ông trên trái đất này, Tant qu’il y aura des hommes, [hay Gió Lửa, Sông Côn Mùa Lũ… của đám Mít! (1)]
Tuy nhiên, tôi sẽ lèm bèm khá dài dòng về một vài nghệ sĩ lớn lao – và chỉ với thế giá của những bậc như thế, chúng ta mới có thể đem Dos ra để mà so đo với họ. Tôi là một ông thầy không quá bảo thủ để mà đếch thèm lèm bèm về những tác giả mà tôi không ưa [Trên TV chẳng đã 'bookmark' toàn những thứ Gấu chán ngấy, như talawas, thí dụ, là cũng vì vậy!]
Tôi rất thèm làm cái việc giải hoặc, démystifier, những thứ như Dos, [hay như Sến cô nương, và những trò hề, "nhìn lại cuộc chiến…" của chúng, trong khi ai cũng thấy rõ như ban ngày, đó là tội ác Bắc Kít!]
Hà, hà!

(1) Note: Trên, có đoạn của Nabokov, có đoạn do Gấu… phịa.
Sorry abt that.
Tuy nhiên, nhắc tới SCML, vì Dos được NMG coi là sư phụ.
Tant qu’il y aura des hommes: Tên tiếng Tây của cuốn From here to eternity

**

Thiêng thật. Vừa nhắc tới, là có ta liền!

Bạn đọc TV, đọc những dòng Nabokov trích dẫn nhà phê bình "Gấu Liên Xô", Biélinski, trong thư gửi Gogol, và tham vọng giải hoặc, [giải bùa mê của Dos], của ông, rồi đối chiếu cái nước Nga khốn khổ khốn nạn đòi cho được một vì Thiên Sứ, với nước Bắc Kít, với giấc mơ ăn cướp Đàng Trong ẩn bên dưới chân lý nước Mít là một, rồi đọc tâm sự của Sến Cô Nương, vừa mới bước vô cõi văn là đã mê ông già râu rậm, và vì Thiên Sứ của Sến…., thế là bạn nhìn ra được toàn cảnh Mít thời hiện đại và hậu hiện đại.
Đâu phải tự nhiên mà Bác Hồ đọc Lênin mà khóc ròng, vì đã tìm ra được con đường cứu nước?
Tất cả những dây mơ rễ má đó, đưa đến đỉnh cao 30 Tháng Tư, và sau đó, đưa xuống hố thẳm Anus Mundi!
*
I am in sympathy with Dostoevsky, who was so infuriated by Russian intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước Nga của họ.

 Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]

Fyodor Dostoevsky, Demons
Like the discovery of love, like the discovery of the sea, the discovery of Dostoevsky marks an important date in one's life. This usually occurs in adolescence; maturity seeks out more serene writers. In 1915, in Geneva, I avidly read Crime and Punishment in the very readable English version by Constance Garnett. That novel, whose heroes are a murderer and a prostitute, seemed to me no less terrible than the war that surrounded us. I looked for a biography of the author. The son of a military doctor who was murdered, Dostoevsky (1821-1881) knew poverty, sickness, prison, exile; the assiduous exercise of writing, traveling, and gambling; and, at the end of his days, fame. He professed the cult of Balzac. Involved in an indeterminate conspiracy, he was sentenced to death. Practically at the foot of the gallows where his comrades had been executed, Dostoevsky's sentence was commuted, but he spent four years in forced labor in Siberia, which he would never forget.
He studied and expounded the utopias of Fourier, Owen, and Saint Simon. He was a socialist and a pan-Slavicist. I imagined at the time that Dostoevsky was a kind of great unfathomable God, capable of understanding and justifying all beings. I was astonished that he had occasionally descended to mere politics, that he discriminated and condemned.
To read a book by Dostoevsky is to penetrate a great city unknown to us, or the shadow of a battle. Crime and Punishment revealed to me, among other things, a world different from my own. When I read Demons, something very strange occurred. I felt that I had returned home. The steppes were a magnification of the pampas. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky were, despite their unwieldy names, old irresponsible Argentines. The book began with joy, as if the narrator did not know its tragic end.
In the preface to an anthology of Russian literature, Vladimir Nabokov stated that he had not found a single page of Dostoevsky worthy of inclusion. This ought to mean that Dostoevsky should not be judged by each page but rather by the total of all the pages that comprise the book.
[1985] [EW]
*
Dos, Những Con Quỉ
Như khám phá ra tình yêu, như khám phá ra biển cả, cái sự khám phá ra Dos tạo một dấu ấn quan trọng trong đời một người [Sến cô nương mê liền ông già rậm râu, ngay lần đầu gặp gỡ!]. Chuyện thường ngày ở tuổi mới nhớn. Đám người nhớn mò tới những nhà văn thanh thản hơn.
Vào năm 1915, ở Geneva, tôi ngấu nghiến đọc Tội Ác và Hình Phạt qua bản tiếng Anh thật dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết, mà những nhân vật thì là một kẻ giết người, và một cô điếm, vậy mà khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây chúng ta..
Tôi bèn dị mọ tìm hiểu tác giả. Con một ông bác sĩ quân y, ông via bị người ta làm thịt. Dos rành về sự nghèo khổ, bịnh hoạn, nhà tù, lưu vong; mê viết như điên, mê du lịch, mê đánh bạc, và sau cùng, về cuối đời, rành rọt điều mà người đời gọi là danh vọng.
Ông rao giảng sự thờ phụng ngài Balzac. Dính vào một âm mưu, ông bị kết án tử. Bị cột vô cột pháp trường, trong khi các bạn đồng mưu đã bị hành quyết, đúng lúc tới phiên ông, thì có lệnh ngưng làm thịt! Và án tử thành bốn năm lao động khổ sai tại Siberia, và ông chẳng bao giờ quên.
Ông nghiên cứu và chú giải những triết học không tưởng của Fourier, Owen, và Saint Simon. Ông là nhà theo chủ nghĩa xã hội và pan-Slavistic. [liên-Slave]. Tôi tưởng tượng ra vào thời kỳ đó, Dos là một đấng Thượng Đế toàn năng, biết hết và biện minh hết về muôn vật. Tôi cũng kinh ngạc, là lâu lâu, ở trên cao chót vót như thế, ông cũng ráng mò xuống phía bên dưới để mà chen chân vào chốn bụi hồng, nơi những phường chính trị cà chớn lèm bèm, trong khi ông thật tởm và kết án chúng.
Đọc một cuốn sách của Dos thì cũng giống như nhập vào một thành phố lớn mà chúng ta mù tịt về nó. Hay là nhập vào cái bóng của một trận đánh. Tội Ác và Hình Phạt mở ra trước tôi - trong nhiều điều khác nữa - một thế giới khác hẳn cái thế giới của riêng tôi. Khi tôi đọc Những Con Quỉ, một điều gì rất lạ lùng xẩy ra. Tôi cảm thấy như là mình về nhà [để treo cái nón!]. Những thảo nguyên thì bạt ngàn, hoành tráng chẳng khác gì vùng đồng hoang Nam Mỹ của chúng tôi. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky, mặc dù tên khó đọc, đều là những anh già vô trách nhiệm của xứ sở Argentine. Cuốn sách bắt đầu vui như tết, như thể người kể chuyện không biết cái tận cùng bi đát của nó.
Trong lời tựa cho tuyển tập văn học Nga, Nabokov phán, ông chẳng thể nào kiếm ra, chỉ một trang ra hồn của Dos, để nhét vô một bài viết. Điều này phải hiểu như là thế này: Tác phẩm của Dos phải được xét đoán trên cái toàn bộ của nó, chứ không phải mỗi trang.
(1)
Có thời ông tưởng rằng Đôxtôievxki là tiểu thuyết gia độc nhất vô song và ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần Tội ác và trừng phạt Những người bị quỷ ám. Nhưng dần dà ông nhận thấy trong truyện của Đôxt rất khó phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, tất cả đều giống Đôxt một cách lôm nhôm và các nhân vật dường như thích thú với sự bất hạnh của họ. Thế là ông không đọc Đôxt nữa và theo lời ông, “sức sáng tạo của ông chẳng vì sự thiếu vắng này mà giảm sút” (2).
(2) Xem Magazine Littéraire, Mai 1999, p. 21. (sic)
HNH, Bài đã dẫn.
NKTV

Baal

Vào mùa hè năm 1862, Dostoevsky làm một chuyến ngao du Pháp và Anh, và sau đó đẻ ra bài viết, Ghi chú Mùa Đông Ấn tượng Mùa Hè, Winter Notes on Summer Impressions.
Chương 5, viết về London, có tên là Baal, bởi vì có vẻ như con người ở đây chỉ là mồi ngon cho vị thần của Syria và Canaan, mà tên tiếng Anh, có nghĩa là "Lord".
Không ai, kể cả Dickens, trong những trang đen tối nhất của ông, viết ra những điều thê thảm, dữ dằn đến như thế - như là Dos. viết - về thủ đô của chủ nghĩa tư bản, vào thời kỳ đó.
Chắc chắn rồi, là người Nga, ông không ưa Tây Phương, nhưng sự căm phẫn về mặt đạo đức của Dos. thì thật là khủng khiếp, và những miêu tả của ông, thì hiện thực đến nỗi, thật khó mà không tin ông. Nghèo đói khủng khiếp, lao động nặng nhọc, tệ nạn say sưa, đĩ điếm, rất nhiều người dưới tuổi vị thành niên, chứng tỏ một điều, giai cấp ngồi trên đầu nhân dân, đã hy sinh nhân dân của họ, cho ông Thần Tiền, the Baal of money.
Thành thử chẳng có gì là ngạc nhiên, khi, cũng chính từ thành phố đó, Marx đưa ra những lời tiên tri của ông, và những lời tiên tri đó, tức chủ nghĩa Cộng Sản, máu đến như thế, hận thù đằng đằng đến như thế!
Milosz's ABC's

Đọc những gì Dos phán về London, cứ nghĩ, ông phán về... Hà Nội, về Đất Bắc.
Không tin? Đọc Ác Mộng lắc, Gạ Tình Lấy Điểm, Quỉ Râu Xanh LQD, Ba Người Khác..


Dostoïevski
Aux lumières de l’Apocalypse

Par GEORGES NIVAT

L'expérience de la révélation, au sens le plus religieux, hante l'œuvre de Dostoïevski. Il ne s'agit pas d'une extase ou d'une béatitude, mais d'un dévoilement brusque et douloureux. La mort et le chaos y constituent la vérité dernière - et le socle d'une foi paradoxale.

…Ce que Vladimir Nabokov n'a pas compris lorsque, dans son cours de littérature à Cornell University il ne professe que des quolibets à propos de Dostoïevski - quolibets qui nourriront plusieurs de ses œuvres, et en particulier Ada (qui traite avec légèreté de l'enfer érotique). Dans Crime et Châtiment, la scène où la prostituée Sonia Marmeladova fait lire les Évangiles à Raskolnikov après qu'il a commis un double crime paraît à Nabokov du plus vulgaire. Selon lui, on ne voit jamais Sonia dans l'exercice de son métier, et le sentimentalisme éculé de l'auteur rend totalement inimaginable cette scène, d'ailleurs venue du boulevard: la pute et le meurtrier lisant l'Évangile. Nabokov, en l'espèce, prouve qu’ 'il ne comprend pas la « poétique de la révélation» de Dossoïevski. Le lieu sordide où se déroule la scène de la lecture le la résurrection de Lazare parle de lui-même sur le métier le Sonia.…
Le Magazine Littéraire: Dos, Mars, 2010

Dos dưới ánh sáng Khải Huyền

Kinh nghiệm mặc khải, theo nghĩa cực kỳ tôn giáo, ám ảnh tác phẩm của Dos. Không phải theo nghĩa cực khoái, hay cực lạc, mà đây là một cú xé toang ra, vén màn, vạch trần, thật dữ dằn và thật đau đớn. Cái chết và cơn hỗn mang tạo nên sự thực sau cùng - một cái chân đế, một cái nền cho một niềm tin ngược ngạo.  
Điều Nabokov không hiểu được, khi ông ta, trong những bài giảng cho sinh viên tại Đại học Cornell, ông chỉ lèm bèm những lời chế nhạo về Dos, những lời chế nhạo này nuôi dưỡng rất nhiều tác phẩm của ông ta, đặc biệt là cuốn Ada, [bàn một cách tầm phào về địa ngục dâm tình]. Trong Tội ác và Hình phạt, cái xen em bướm Sonia đọc Kinh Thánh cho Raskolnikov, sau khi anh ta phạm tội sát nhân kép, có vẻ như đối với Nabokov, là quá dung tục cà chớn!  Theo ông ta, người ta chưa từng nhìn thấy Sonia khi làm công việc bướm, và cái thứ chủ nghĩa tình cảm cũ mòn của tác giả khiến cho cái xen trên, đến từ đường phố, trở thành không thể nào tưởng tượng ra được: bướm và sát nhân đọc Kinh Thánh! Nabokov không hiểu được “thơ tính của mặc khải” của Dos
.

Quả có thế. Một trong những người hiểu Dos và cắt nghĩa được xen trên, là Nathalie Sarraute (1900-1999).

Trong một bài viết khi đọc cuốn Hồi ký viết dưới hầm, Thạch Chương dịch Dos, khi còn Sài Gòn, Gấu đã viện dẫn ý của Sarraute, trong Kỷ nguyên Ngờ vực, L'Ère du soupçon (1956, The Age of Suspicion), để giải thích không chỉ xen trên mà rất nhiều xen trong tác phẩm của Dos, nếu nhìn theo con mắt thường, theo luận lý thường, là không hiểu được.

Sarraute cho rằng, có hai tuyến nhân vật, trong tác phẩm Dos. Một, thiện từ trong trứng nước, đẻ ra là có thiện tánh rồi, và cứ thế thảnh thơi sống, chờ ngày trở lại ngôi, như nhà thơ Vũ Hoàng Chương phán. Còn tuyến nhân vật kia, cực trần ai, phải lặn lội trong bùn, trong tội, trong nhục, phải nếm đủ thứ thực phẩm trần gian, rồi, nếu ngộ ra, thì mới về lại ngôi được!
Đại khái như thế!

Nhưng phải Camus, thì mới “hách” làm sao, khi đọc Dos, không phải dưới ánh sáng Khải Huyền, mà là dưới lửa Địa Ngục, hay gần gụi hơn, lửa cuộc chiến Mít, khi phán:

Những con đường đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu au crime mènent la société à la révolution).

Bây giờ chúng ta hiểu tại sao cái bóng cuốn Tội ác và Hình phạt phủ lên hết miền đất Bắc Kít, qua Bếp Lửa.

Đại cầm ở tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
-Cậu đến trường luôn không?
-Không.
-Làm gì ở nhà?
-Đọc sách và suy nghĩ.
-Suy nghĩ về phép giết người? Tôi nói đùa.
Đại không đáp. Chúng tôi đứng nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới. Đại bỗng nói:
-Nó đến trường tìm mình dữ lắm.
-Cậu quyết định thế nào?
Đại trầm ngâm một phút:
-Chưa.
Đại là sinh viên khoa học, đã qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi động viên và đang trốn.
-Nghĩ gì về Dostoievski?
-Bệnh.
Tôi không ưa lối nói cụt ngủn của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản. Những căn nhà thấp đã bốc khói. Không khí ấm hơn. Tôi nhìn bâng quơ những ngọn cây.

(Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa).
Source

Đại, không giết người, nhưng ‘làm thịt’ cô con gái, con riêng ông Chính, rồi chuồn ra bưng, làm cách mạng!

Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]

Dos dưới ánh sáng Khải Huyền

Kinh nghiệm mặc khải, theo nghĩa cực kỳ tôn giáo, ám ảnh tác phẩm của Dos. Không phải theo nghĩa cực khoái, hay cực lạc, mà đây là một cú xé toang ra, vén màn, vạch trần, thật dữ dằn và thật đau đớn. Cái chết và cơn hỗn mang tạo nên sự thực sau cùng - một cái chân đế, một cái nền cho một niềm tin ngược ngạo.  
Điều Nabokov không hiểu được, khi ông ta, trong những bài giảng cho sinh viên tại Đại học Cornell, chỉ lèm bèm những lời chế nhạo về Dos, những lời chế nhạo này nuôi dưỡng rất nhiều tác phẩm của ông ta, đặc biệt là cuốn Ada, [bàn một cách tầm phào về địa ngục dâm tình]. Trong Tội ác và Hình phạt, cái xen em bướm Sonia đọc Kinh Thánh cho Raskolnikov, sau khi anh ta phạm tội sát nhân kép, có vẻ như đối với Nabokov, là quá dung tục cà chớn!  Theo ông ta, người ta chưa từng nhìn thấy Sonia khi làm công việc bướm, và cái thứ chủ nghĩa tình cảm cũ mòn của tác giả khiến cho cái xen trên, đến từ đường phố, trở thành không thể nào tưởng tượng ra được: bướm và sát nhân đọc Kinh Thánh! Nabokov không hiểu được “thơ tính của mặc khải” của Dos
.

Nhưng phải Camus, thì mới “hách” làm sao, khi đọc Dos, không phải dưới ánh sáng Khải Huyền, mà là dưới lửa Địa Ngục, hay gần gụi hơn, lửa cuộc chiến Mít, khi phán:
Những con đường đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu au crime mènent la société à la révolution).

Bây giờ chúng ta hiểu tại sao cái bóng cuốn Tội ác và Hình phạt phủ lên hết miền đất Bắc Kít, qua Bếp Lửa.