Notes
|
Ha Jin
Ngôn ngữ
của sự phản
bội.
The Language of Betrayal
Ngược
với phản bội, betrayal, là một lòng một dạ,
loyalty, là trung với đảng hiếu với dân, allegiance. Dị ứng, uneasy,
với những
từ này, nhà văn di dân cảm thấy mình có tội vì cái sự vắng mặt của cái
bản mặt
của mình đối với quê hương [Tết này con chẳng thể nào về được], và cái
sự vắng
mặt này thường được [nhà nước] coi là ‘đào ngũ”, desertion. Tuy nhiên
sự phản
bội tối hậu của một nhà văn, ấy là chọn một ngôn ngữ khác thay cho ngôn
ngữ mẹ
đẻ. Nói gì thì nói, một khi nhà văn toan tính biện minh, lý giải khi
chấp nhận
một ngôn ngữ ngoại, thì đây là một sự phản bội khiến anh ta xa rời,
vong thân,
ra khỏi tiếng mẹ đẻ, và hướng sáng tác của mình tới một ngôn ngữ khác.
Sự bội
phản ngôn ngữ là bước chót nhà văn di dân dám thực hiện, sau đó, bất cứ
một
hành
động dửng dưng, xa lạ nào khác, đều chỉ là ba chuyện lẻ tẻ.
Về mặt lịch sử mà nói, cá nhân
luôn bị buộc tội phản bội quê hương, xứ sở. Tại sao chúng ta không lật
ngược lại,
buộc tội xứ sở phản bội nhà văn? Nhiều xứ sở phản bội công dân của
chúng. Tội ác
tệ hại nhất của xứ sở đối với một nhà văn, là khiến anh ta không thể
viết với
sự chân thực và trọn vẹn.
Chừng nào còn có thể, thì nhà
văn vẫn luôn luôn ở trong vòng tay của tiếng mẹ đẻ, như vậy an toàn
hơn. Nhà văn
Đức W.G. Sebald, sống và dậy học tại Anh trên ba chục năm, rành cả hai,
tiếng
Anh và tiếng Pháp, nhưng ông luôn viết bằng tiếng mẹ đẻ. Khi được hỏi
tại sao
không chuyển qua tiếng Anh, ông cho biết, không cần thiết. Ông trả lời
như vậy,
trước tiên hẳn là vì tiếng Đức là một trong những ngôn ngữ lớn, major,
của Âu
Châu, và từ ngôn ngữ đó, thật dễ dàng chuyển qua những ngôn ngữ Âu Châu
khác. Ngược
lại, là trường hợp của nhà Pháp -Tiệp Milan Kundera, ông khởi sự viết
bằng tiếng
Pháp khi đã trên sáu chục tuổi. Một sự cố gắng như thế thật là đáng nể,
và nó hẳn
còn cho thấy đây là một quyết định khó khăn vô cùng. Nếu chúng ta so
sánh những
cuốn tiểu thuyết mới xb, viết bằng tiếng Pháp, với những cuốn trước
đây, viết bằng
tiếng Tiệp, giọng văn sau mỏng hơn, kể từ sau cuốn Immortality. Dù sao, sự chọn
lựa tiếng Pháp của ông là một cuộc phiêu lưu văn học can đảm được theo
đuổi bởi
một cái đầu không chút ngừng nghỉ. Như nhân vật kể chuyện trong cuốn Ignorance
của ông cho thấy, anh ta coi việc trở về Ithaca
của Odysseus, là chấp nhận chung cuộc của cuộc đời, ‘the finitude of
life’,
Kundera không thể quay lại, và cứ lầm lũi tiếp tục cuộc hành trình. Đó
là lý do
ông coi Pháp như là ‘quê hương thứ nhì’.
Tôi thường được hỏi, tại sao
viết bằng tiếng Anh, và thường trả lời, “để sống sót”. Mọi người thường
đánh
đồng ‘sống sót’, survival, với ‘sống’, livehood, và họ bèn ca ngợi động
cơ
khiêm tốn của tôi. Sự thực, sống sót cái thân xác bằng cách làm đầy cái
bao tử,
chỉ là một phần nhỏ của vấn đề.
Sống còn có nghĩa là hiện hữu -
sống một cuộc đời có ý nghĩa. Hiện hữu còn có nghĩa, sử dụng thật ngon
lành
cuộc đời của mình, to exist also means to make the best use of one’s
life, theo
đuổi cái viễn mộng của mình, to pursue one’s vision. Nhà thơ Nga Joseph
Brodsky
có lần nhận xét, “Khi một nhà văn phải chuồn ra khỏi tiếng mẹ đẻ, mò
tới một
tiếng nói khác, người đó làm như vậy là do cần thiết, thí dụ như
Conrad, hay
bởi là vì tham vọng nóng bỏng, như Nabokov, hay còn thèm một sự dửng
dưng lớn
lao hơn, như Beckett”, sự kiện, ông phân ra thật là rạch ròi những động
cơ như vậy, chỉ là cái cớ nhằm giới thiệu đề tài bài viết của ông, “Để
làm hài lòng một
cái bóng”, “To please a Shadow”. Thực tế mà nói, những động cơ của nhà
văn thì rối
rắm, quấn quít vào nhau. Khi một nhà văn, thiên di từ một ngôn ngữ này
qua một
ngôn ngữ khác, sự cần thiết, tham vọng, và sự dửng dưng, thường cùng
một lúc
quần người đó tơi bời hoa lá. Nabokov thường nói, tiếng Nga là một ngôn
ngữ
chết, a dying language, và do cần thiết mà ông phải viết bằng tiếng
Anh, ngay
cả trước khi di qua Mẽo. Tuy tác phẩm của ông, gói tròn lại mà nói,
không có
tính chính trị, nhưng ông thú nhận, “Tôi quan
hoài tới một cõi trung tâm về tinh thần ở
trong con người tôi, từ đó bật ra những tiếng cười nhạo báng trước cái
trò hề
tàn bạo của những nhà nước toàn trị, như là Nga xô, hay là trước những
khối u
ác tính của nó, như là Trung Quốc”. Rõ ràng sự dửng dưng cũng là động
cơ của
Nabokov.
Conrad thường cho chúng ta
cái cảm giác ông viết dưới sức ép của sự cần thiết. Sự thực, tham vọng
trở thành
một nhà văn ý nghĩa luôn là một phần trong tầm nhìn của ông. Chúng ta
biết, ông
coi Flaubert như sư phụ, và coi Henry James, ngang hàng với
mình. Để
thực hiện tham vọng, ông không có chọn lựa nào khác, ngoài chuyện viết
bằng một
thứ ngôn ngữ lớn của Âu Châu – Anh ngữ - tuy ông chẳng bao giờ cảm thấy
dễ chịu,
thoải mái, với quyết định của mình. Đoạn đời sung mãn, đặc biệt là
trong thời kỳ
Đệ Nhị Thế Chiến, ông thường xuyên dính líu với những vụ việc, affairs,
của Ba
Lan, và hỗ trợ cuộc chiến đấu của nó, chống lại chế độ bạo chúa Nga.
Ông tuyên
bố một trong những tham vọng văn học của ông là viết về những kinh
nghiệm Ba
Lan, tuy nhiên, ông chỉ cho ra đời được vài truyện ngắn, như “Hoàng tử
Roman” hay
“Amy Foster”.
Trong lần ông thăm viếng Ba Lan
vào năm
1914 sau 21 năm vắng mặt, Conrad lo bấn xúc xích, mặc dù tiếng tăm quốc
tế của
ông: ông chỉ sợ quê hương làm mặt lạnh với mình! Khi ở Anh, ông luôn
cảm thấy
mình là một “khúc ruột ngàn dặm”, tức, một kẻ ngoại quốc, và được coi
là như
vậy. Đó có lẽ là một trong những lý do ông từ chối những bằng cấp vinh
danh,
the honorary degrees, của Oxford, Cambridge, và những đại học khác,
luôn cả
tước Hiệp sĩ của nhà nước Anh (1924). Điều ông thực sự mong muốn, là
giải Nobel
văn chương , nhưng chẳng bao giờ được đề cử. Về một mặt, những từ chối
vinh
danh của nước Anh có vẻ như cho thấy quyết tâm của ông được ở cái thế
độc lập,
về mặt khác, những từ chối như thế còn đề xuất một điều là ông muốn trở
thành
một nhà văn Âu Châu, như vậy sẽ bao gồm luôn cả hai căn cước Anh và Ba
Lan. Nói
một cách khác, ông muốn một giải thưởng quốc tế, để khâu dính liền lại
thành
một, sự phân chia ở bên trong cái gọi là căn cước của ông. Một giải
thưởng
Nobel còn đem vinh quang tới cho những người Ba Lan, và như thế, nó còn
đem sự
cứu chuộc đến cho chính ông, khúc ruột ngàn dặm, kẻ bỏ chạy, tên đào
ngũ, [tên
bồi Mẽo nữa chứ, nếu là trường hợp GNV!]
Sự thực, khó mà nói Conrad đào ngũ, bởi vì nếu ông ở lại, ông sẽ bắt
buộc phải
thi hành nghĩa vụ quân sự trong đội quân xâm lược Nga.
Cái sự hăm hở chờ Nobel của Conrad xem ra có vẻ ngây thơ. Ông lèm bèm
với đệ tử
của mình là Jean-Aubry: “Yeats đã được Nobel. Theo Thầy, cho như thế
cũng là
một cách gián tiếp thừa nhận nhà nước mới Ái nhĩ lan tự do, the new
Irish Free
State, nhưng thế nào cũng sẽ đến lượt Thầy, trong một, hoặc hai năm
tới”. Và
Conrad tẽn tò khi giải về tay một nhà văn Ba Lan xoàng hơn ông,
Wladyslaw
Reymond, vào năm 1924.
Conrad không nhận ra, ông chẳng thuộc một xứ sở nào.
Nhưng, thời gian quả là quá tốt đối với ông. Sau khi chết, Conrad trở
thành nhà
văn được biết nhiều đến nhất ở Ba Lan. Tác phẩm của ông được đưa vô
sách giáo
khoa, và ông trở thành một huyền tượng, a mystical figure, trong văn
hóa Ba
Lan, được vinh danh như là một trong những vị anh hùng của nó, và, có
lẽ đây là
một trong những vị anh hùng cô đơn và bị hiểu lầm nhiều nhất của quê mẹ
Ba Lan!
Ui chao, đọc đến đây, Gấu không thể không nhớ đến trường hợp nhà thơ
TTT “lừng
lững khốc liệt” [chữ của ông, trong Một Chủ Nhật Khác] đi vô
Văn Miếu
Mít, ngay giỗ đầu của ông!
Những nhà thơ Ba Lan bị hớp hồn bởi Conrad, lý do là, theo Ha Jin, ông
gợi lên
trong họ sự mê hoặc tội lỗi của lưu vong.
[Với TTT, sự kiện ông vô Văn Miếu ngồi, mà chẳng hách sao: Sự trở
về của
đứa con tư sinh của một miền đất, tên sĩ quan Ngụy, tên tù cải tạo, vân
vân, và
vân vân!]
[Nguyên văn, Ha Jin viết: Polish poets have been fascinated by him,
perhaps
because he evokes in them the guilty glamour of exile].
Tiếu lâm nhất là, người cố gắng đem ông vô Văn Miếu, bị lũ ngu xi và
[vì] đố kỵ
ở hải ngoại xúm lại xỉ vả, trong có cả bà chị thân thương
của cô
em thi sĩ!
*
Theo
Adam Gillon, phải có tới
một nửa những nhà thơ Ba Lan đương thời đã viết về cái sự bỏ xứ mà đi
của Conrad, và, đi đâu thì đi nhưng
vẫn không quên cội rễ của ông, và có một số người còn miêu tả ông, như
là một chàng
thuỷ thuỷ chuyên nghiệp, một Odysseus tân thời, không bao giờ quay lại
cái bến
ra khơi lần đầu. Nhà thơ Stanislaw Mlodozeniec (1929-) có những dòng
như sau,
trong “A Song about Conrad”:
Anh đã thuần hóa những
đất trời
những biển cả xa lạ
Những dòng nước xảo trá ở
vùng
sâu
Bằng thứ tiếng tiếng nước
người
trọ trẹ
Anh đã xâu cả thế giới
rộng lớn
Bằng sợi chỉ, là linh hồn
Ba
Lan
Những biển cả ngoại lai
kia -
giờ là của chúng ta.
Bóng ma của anh lang
thang khắp
chốn
Một dấu chân quen thuộc
trên biển
lạ
Gió thổi với hơi thở của
anh.
Ngay cả
chuyện Conrad không
thể trở về quê hương, thì cũng được lý tưởng hoá, như là một cách để
vươn tới một
ý nghĩa sâu xa hơn, và sau cùng, tới một sự trở về có tính cách siêu
hình, nghĩa
là, bến tới không hẳn là quê nhà nhưng mà là một cội nguồn xa vời, được
nhân loại
chia sẻ. Nhà thơ Krysztof Jezewski (1939-) làm những dòng thơ tán tụng
“Joseph
Conrad Rời Ba Lan”:
Khi đôi môi của bóng tối
liếm
trọn thân thể rướm máu, rách bươm của anh
Khi anh bị bỏ lại một mình
Anh ôm lấy thế giới vào
trong
ngực anh
Như không khí vào lồng
phổi
Và nơi trở về, là nơi đó,
Luôn luôn là bến bờ xa lạ
tít
mù đó
Là cái hố thẳm vô cùng
của biển cả
và của Con Người
Bằng sự can đảm, và bền bỉ,
Conrad, người thuỷ thủ đơn độc bị biển cả quần cho nát bấy, sau cùng đã
chinh
phục được giới văn học Anh. Sau khi ông mất, cả hai, Ba Lan và Anh, đều
ôm lấy ông,
và đều coi ông chỉ là của riêng của họ, và đúng như thế, bởi vì cái
tinh thần
uyên nguyên như của ông quả là không chỉ một quốc gia độc nhất nào có
thể giữ
trọn làm của riêng được!
Nhưng tới đây, cho phép tôi được
ngưng lại một tí, để nói về những đau thương mà Conrad được đồng bào
của ông ban
cho: Một tờ báo văn học Ba Lan đã từng xỉ xả vị anh hùng của họ trong
nhiều năm.
|
|