*
Notes

















*

Trên số Le Magazine Littéraire, Tháng Chín, 2009, có một bàn tròn văn học, giữa một số nhà văn lưu vong, do Tâm Văn Thi thực hiện.

Có giai thoại thú vị sau đây, do Atiq Rahimi, Goncourt 2008, kể, về Nasro Dinh, một nhân vật huyền hoặc của văn học nước ông, Afghanistan:

Một buổi tối, có người bắt gặp Nasro Dinh cầm một ngọn đèn, loay hoay tìm kiếm chìa khoá nhà của ông; người đó bèn kiếm phụ, và bất giác hỏi, nhưng ông mất nó ở đây hả, và ông ta trả lời, không phải ở đây, mà ở gần nhà tôi; vậy sao lại kiếm ở đây; ở đó, làm gì có đèn mà kiếm.

Câu chuyện trên tương tự câu của Adam Mickiewicz, Milosz trích dẫn, trong

Ghi chú về lưu vong:

Anh ta không tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì có hạnh phúc ở xứ sở của anh ta.
He did not find happiness, for there was no happiness in his country.
Adam Mickiewicz. Milosz trích dẫn

Lưu vong: Cách sử dụng

Hãy coi lưu vong là số kiếp, theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa lành, chỉ có cách đó mới giúp chúng ta vứt bỏ vào thùng rác những hoang tưởng về mình.

Lưu Vong: Khuôn Mẫu

Anh ta biết nhiệm vụ của mình, và nhân dân đang chờ đợi những lời nói của anh, nhưng anh bị cấm nói.
Bây giờ, ở nơi anh đang ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm nghe, vả chăng, anh quên mẹ những gì anh phải nói.

Lưu vong: Thích nghi

Sau nhiều năm lưu vong, chúng mình bèn tưởng tượng đời mình như thế nào, nếu chẳng lưu vong.

Lưu Vong: Chán Chường

 Cú đánh đầu tiên vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến đã từng cảm nhận: Nhà văn lưu vong không đem theo được cùng với ông ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng với sự mất tích độc giả, nhìn vào những trang viết cũ cứ như nhìn vào hư vô.. là chán chưòng, tuyệt vọng, là sợ đếch ai còn biết đến tên ta [loss of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral torment].
Nhà văn lưu vong đau khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào ý thức, thói quen tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao giờ học đứng bằng đôi chân của chính mình.
Anh ta có thể thắng, nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua
[He may win, but not before he agrees to lose]

Lưu vong là lâm vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu nói về mặt đạo đức, bởi vì nó bẻ gãy kết nối của một con người với  đám đông, nói rõ hơn, nó tách một cá nhân ra khỏi một nhóm, và cá nhân này ngưng không còn chia sẻ kinh nghiệm của mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn vặt về đạo đức phản ảnh sự vấn vương của anh ta với một hình ảnh hào hùng về chính mình, và anh ta phải, từng bước từng bước, đi tới một kết luận thật thê lương thật đau đớn, là:  thật khó mà làm được một việc có giá trị về mặt đạo đức, và càng thật khó, giữ cho được một hình ảnh không hề hoen ố về chính mình.
*
Lưu vong, thiên di, dời đổi, không liên quan tới ngày tháng, thống kê hay quota, nhưng tới những số mệnh của từng cá nhân con người.
Cuốn Nouvelles Odysées mở ra bằng những dòng trên.
Đây là một “anthologie” gồm những bản văn của nhiều tác giả ở Tây, toàn di dân, hay lưu vong, như Tahar Ben Jelloun, André Makine, Francois Cheng…
Trong lời tựa, Eduardo Manet viết: “Có nhiều lưu vong, di dân như có nhiều cát ở bãi biển”
Và họ đều ‘viết văn như hành lạc trong đau đớn bất lực" cả, Gấu mượn lời nhà đại phê bình để nói về…  cát ở bãi biển!
*
Gấu này, 'trâu chậm uống nước đục' [“Anh đi muộn quá, hết mùa biển động từ đời nào đời nào rồi”, một bà bạn văn đi trước, than thở giùm], và, muộn còn hơn không, và, cũng cố ‘hành lạc trong bất lực đau đớn’, được chừng ‘vài chục ngàn trang’ net, nắn gân tí tí Con Quỉ Bắc Kít, đi được một đường vĩnh biệt Bông Hồng Chẳng Hỏi Vì Sao, đi gặp kịp Con K, và vưỡn còn dư tí bonus “quĩ thời gian’, và tính sử dụng nó, vào việc 'trước trác', tệ lắm là ba cuốn tiểu thuyết, một, viết về cú trở về lại Đất Bắc, một, về Gấu Nhà Văn, và một, về Những Ngày Ở Thiên Đường Đỗ Hoà, nông trường cải tạo Vẹm!
Hà, hà!

*

Hồi ức thủng lỗ

A free man, when he fails, blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)
(J. Brodsky, Phận lưu vong, The Condition We Call Exile

Of course, it's one hell of a way to get from Petersburg to Stockholm; but then for a man of my occupation the notion of a straight line being the shortest distance between two points has lost its attraction a long time ago.
(Lẽ dĩ nhiên, đường từ Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng với một người nghề ngỗng như tôi, ý niệm đường thẳng - là đường ngắn nhất giữa hai điểm - đã mất sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.)
(Brodsky: Diễn văn nhận Nobel văn chương)

Tôi không là di dân, mà cũng chẳng bị tống xuất.
Thế giới bị huỷ diệt không phải của tôi. Tôi chẳng hề biết nó.
(I neither emigrated nor was deported.
The world that was destroyed was not mine. I never knew it.
Henri Raczymow, 'Memory Shot through with Holes').

Cuốn Exile and Creativity, Gấu mua ngày 29 July, 1998, xưa rồi Diễm ơi, tại tiệm Britnell, xưa nhất Toronto. Tiệm này nay biến thành quán cà phê. Khi nó chết, cả thành phố năn nỉ đám con cháu chủ tiệm đừng bán, đừng bán [đừng đốt, đừng đốt!], nhưng họ lắc đầu, chán sách quá rồi!
Tiệm kế bên Toronto Reference Library. Đây là thư viện đầu tiên Gấu được cô giáo tại trung tâm tạm trú, shelter, đưa đi tham quan, liền sau ngay khi tới Toronto, từ trại tị nạn Thái Lan.
Một buổi tối, trong những ngày lạnh nhất kể từ 40 năm, như báo chí mô tả.
Vừa tới phi trường, tối 18.1. 1994, là được đưa đi lãnh quần áo lạnh, giấy bốt, rồi được xe chở từ phi trường, xuyên qua bão tuyết mù trời, tối thui, tới shelter. Ngay liền sáng hôm sau, bò ra bên ngoài, kiếm tiệm phở, không hề biết, tiệm chỉ mở cửa vào lúc 11 trưa! Về, chưa tới giờ làm việc, lại phải đứng ngoài trời tuyết, chờ nhân viên mở cửa cho vô!

Bất giác nhớ ký giả Lô Răng, một lần ngồi Quán Chùa, kể, lần ông đi Mẽo tu nghiệp, ở kế bên một bãi biển, đêm nghe tiếng sóng vỗ vào bờ, không hiểu sao, đều thành tiếng rao, Phở, Phở!
Sau đó, được đi ăn phở, cũng vài lần, rồi tới lần được cô bạn và ông chồng tới shelter thăm, chở đi ăn phở. Cô bạn cởi bao tay, bắt tay Gấu, tự nhiên như người văn minh, Gấu bắt tay, run bần bật, đúng như thế, khiến Gấu Cái “lại đâm bực”!