Notes
|
*
Paul
Celan và những người
dịch ông
Paul Celan and his
translators
J.M. Coetzee
Paul
Antschel sinh năm 1920 tại
Czernowitz, Bukovina, vùng đất, khi đế quốc Áo Hung tan vỡ ra vào năm
1918, trở
thành một phần của Romania.
Vào những ngày đó, Czernowitz là một thành phố hiền hòa, trí thức, dễ
sống với một
cộng đồng nhỏ xíu những người Do Thái nói tiếng Đức. Antschel được nuôi
dậy trong
một môi trường văn hóa Đức cao; học vấn của ông, một phần ở Đức, một
phần ở
Romania, và ông đã từng theo học đánh vần tại một trường Hebrew.
Khi còn
trẻ, ông làm thơ, rất mê, phải nói, sùng kính, Rilke.
Sau một năm học, 1938-39, tại một trường thuốc ở Paris, tại đây ông gặp
đám
Siêu Thực, ông về nhà nghỉ hè, và chiến tranh bùng nổ, hết đi Tây. Do
hiệp ước
Hitler-Stalin, Bukovina bị sáp nhập vô Ukraine:
Trong một thoáng, ông có vinh hạnh là một người dân Liên Xô.
Tháng Sáu 1941, Hitler xâm lăng Liên Xô. Đám Do Thái ở Czernowitz bị
lùa vô
ghetto, chẳng mấy chốc những cuộc tống xuất bắt đầu. Có vẻ như ngửi ra
được
thảm họa, Antschel trốn kịp, trong đêm cha mẹ bị bắt, tống lên tầu chở
tới trại
lao động tại vùng Uraine bị Đức chiếm đóng. Cả hai chết ở đó, bà mẹ bị
bắn vô
đầu khi không còn lao động được. Antschel cũng trải qua những năm chiến
tranh
bằng khổ sai lao động tại Axis Romania.
Được người Nga giải phóng vào năm 1844, ông làm việc như là một phụ tá
trong
một nhà thương tâm thần, rồi tại Bucharest, như một biên tập viên và
dịch giả,
lấy cái nick Celan, đảo tự, từ tên cúng cơm, theo cách đánh vần bằng
tiếng
Romania. Vào năm 1947, trước khi bức màn sắt của Stalin buông xuống,
ông kịp
chuồn đi Vienna, và sau đó chuồn tiếp
tới Paris.
Ở Paris ông lấy “chơi" mảnh bằng Cử nhân Văn khoa, và được bổ nhiệm làm
giảng
viên, a lecturer, về văn chương Đức, tại ngôi trường hách xì xằng École
Normale
Supérieure, và ông bám lấy nó cho tới khi chết. Ông kết hôn với một bà
đầm
Pháp, dân Ky Tô, gốc gác quí tộc.
Thành công do cuộc đào
thoát từ
Đông qua Tây của ông chẳng mấy chốc bị mất vui. Trong số những nhà văn
Celan
chuyển dịch tác phẩm của họ, có nhà thơ người Pháp Yvan Goll
(1891-1950).
Claire, bà vợ góa của ông này, lôi những bản dịch ra và la toáng lên
rằng thì là
Celan đã chôm một số những bài thơ tiếng Đức của chồng mình. Những lời
tố cáo
tuy thực vô lý, và có thể nói, điên khùng, tuy nhiên, chúng ảnh hưởng
tới
Celan, đến độ ông tin rằng, đây nằm trong một âm mưu chống lại ông
“Chúng ta,
những người Do Thái còn phải chịu đựng đến mức nào nữa, những điều gì
nữa?”, ông
viết một lá thư tâm sự cho một người bạn thân của mình là Nelly Sachs,
cũng Do
Thái như ông, và cũng viết bằng tiếng Đức. “Không đâu, bạn không thể
nào biết có
bao nhiêu kẻ dính vô vụ này. Không lẽ tôi kể hết tên họ? Bạn sẽ chết
sững vì ghê
sợ”.
Phản ứng của ông không phải là
do hoảng loạn, hoang tưởng. Một nước Đức hậu chiến ngày một tin tưởng
hơn thì đồng thời, những luồng tư tưởng, hành động bài Do Thái bắt đầu
ló dạng, không chỉ ở phía
hữu, mà cả ở tả phái, ngày càng gây nhiễu, và, sự kiện Celan nghi ngờ,
không phải
là không có lý, ông trở thành điểm nhắm thuận lợi của một chiến dịch về
một thứ
văn hóa Đức dành cho thứ người Đức thượng hảo hạng, the Aryanisation of
German
culture [thì cũng giống Mít, văn hóa sông Hồng, Bắc Kít mới là văn hóa
chuẩn,
chính, còn ba thứ khác là đặc sản, cục bộ, địa phương, đồi trụy, phản
động...!]
Claire không ngừng nghỉ chiến
dịch chống Celan, truy đuổi ông tới bên kia nấm mồ, những lời buộc
tội của con mụ đầm này tẩm độc những ngày tháng sau cùng của Celan, góp
phần nặng nề làm cho ông chán ngán đến suy sụp hoàn toàn.
Paul Celan and his
translators
J.M.
Coetzee
Từ 1938
cho tới khi tự trầm vào
năm 1970, Celan làm chừng 800 bài thơ bằng tiếng Đức; trước đó, là cả
một khối,
a body, bằng tiếng Romania.
Sự công nhận tài năng của ông cũng sớm sủa, ngay từ 1952, khi xuất hiện
Mohn
und Gedachtis [tên tiếng Anh, Poppy and Memory], ông củng cố
tiếng tăm
của mình
như là một trong những thi sĩ trẻ viết bằng tiếng Đức, với Sprachgitter
(Speech
Grille, 1959), và Die Nietmandsrose
[The No-One’s Rose, 1963). Thêm hai
tập xuất
hiện khi ông còn sống, và, ba, sau khi ông mất. Mảng thơ muộn, lệch
điệu - ngả qua
tả phái- đối với tầng lớp trí thức Đức
sau 1968, cho nên không được hồ hởi đón nhận.
Về danh tiếng quốc tế của ông,
cho tới 1963, thiên hạ dễ dàng tiếp cận thơ ông, Tuy nhiên mẻ thơ muộn
thật khó
đọc, có thể nói, tối tăm. Đám phê bình gọi thơ hũ nút, do cái phần biểu
tượng bí
hiểm và những qui chiếu mang tính riêng tư, cá nhân. Ông la bai bải:
“Làm gì có
cái chuyện hũ nút”. “Đọc! Tiếp tục đọc, cái hiểu tự nó mò tới” [“Read!
Just keep
reading, understanding comes of itself”]
Hũ nút đúng điệu thơ Celan, là
bài thơ in sau khi ông mất, vô đề, tôi [Coetzee] trích dẫn ở đây theo
bản dịch
của John Felstiner:
You lie
amid a great
listening,
enbushed, enflaked.
Go the
Spree, to the Havel,
go to the meathooks,
the red apple stakes
from Sweden
-
Here
comes the gift table,
it turns around an Eden
-
The man
became a sieve, the
Frau
had to swim, the sow,
for herself, for no one, for
everyone -
The Landwehr Canal
won't make a murmur.
Nothing
stops.
Ở
cái mức thô thiển nhất của
nó, bài
thơ nói về
cái gì
vậy? Thật
khó nói,
cho tới khi có
người may mắn vớ được tí thông tin, do chính Celan xì ra cho
nhà phê
bình Karl Liebknecht. Cái cô phải bơi đó,
là Rosa
Luxemburg. “Eden” là tên khu nhà xây trên khu đất hai nhà hoạt động bị
bắn vào
năm 1919, mấy cái móc treo thịt là ở Plotzensee, bờ sông Havel River,
nơi mấy kẻ
tự coi là những sát thủ tính làm thịt Hitler bị móc lên, vào năm 1944…
Từ những
thông tin như vậy, bài thơ ló dạng, như là một bình luận bi quan về sự
tiếp tục sát nhân của cánh hữu ở Đức, và sự câm nín của người Đức về
chuyện đó.
Bài
thơ Rosa Luxemburg trở thành
một locus
classicus
nho nhỏ, triết
gia Hans-Georg Gadamer sử dụng nó để bảo vệ Celan, chống những cáo buộc
thơ hũ
nút; ông khẳng định, bất cứ một độc giả đầu óc cởi mở, chịu hấp thụ,
chịu cảm
nhận, receptive, thủ sẵn một nền tảng văn hóa Đức là có thể hiểu được
điều quan
trọng cần hiểu, trong thơ Celan, chẳng cần sự giúp đỡ nào khác, và,
thông
tin nền tảng, background information phải coi như là thứ cấp, second
place, so
với “điều bài thơ [tự thân] hiểu” (“what the poem [itself] knows).
Coeztee
viết, lời phán của
Gadamer can đảm, nhưng, thua, [Gadamer’s argument is a brave but losing
one].
|
|