La Pologne pleure ses
dirigeants
Ba Lan khóc những vị lãnh đạo
của họ
Một tai nạn máy bay khủng
khiếp ở Liên Xô. Máy bay chở Tổng thống Ba Lan và các nhân vật cao cấp
đến
Katyn để tưởng niệm 20.000 người Balan bị giết ở Katyn trong thời
Staline.
Đọc commentaire mà lạnh
người: 20.000 người bị bắn sau gáy!
Terrible que ce crash se
produise au moment des commémorations du
massacre de Katyn, que la Russie a mis des décennies à reconnaître,
après des
dénégations cyniques. 20 000 victimes abattues d'une balle dans la
nuque ! Paix
aux âmes des victimes d'alors et d'aujourd'hui...
Ui
chao, lại nhớ vụ Mậu Thân:
"Nghe nói", VC cũng bắn vào sau gáy đám Ngụy rồi thẩy xuống hố.
Đừng nói, vụ thảm sát đó không
xẩy ra.
Vụ tàn sát tại
Katyn, và cùng với nó, sử thi Ba Lan, đã được lên phim, ở trong đó, có
một tội
ác, và một lời dối trá.
Mật vụ Nga tàn sát 20 ngàn sĩ quan Ba Lan, và đổ tội
cho Nazi.
Hoặc: Làm gì có
chuyện đó.
An Oscar would be good answer
for that:
Cho nó Oscar là
một cách trả lời tốt nhất.
Nhật ký TV
Chỉ
nước Nga hậu cộng
sản thời Tổng thống Yeltsin mới công khai thừa nhận rằng an
ninh NKVD
theo lệnh Stalin đã giết tù binh Ba Lan, vùi xuống mồ tập thể
năm 1940
tại rừng gần Smolensk và đổ cho quân Đức.
BBC
Còn VC,
bao giờ?
*
Gấu đọc tin này, đúng lúc đang
đọc một số báo cũ, tờ Granta, số đặc biệt về Trẻ con, Children, Mùa Thu
1996.
Đọc
đúng bài viết, Những người Do Thái cuối cùng
ở Warsaw. Một hồi ức, thật thê lương.
Tác giả Abraham Brumberg viết về một
chuyến thăm nghĩa địa Do Thái ở Warsaw:
Tôi chẳng có một bà con nào nằm ở đó,
nhưng trong vòng 25 năm qua, tôi trở về hoài hoài, bởi vì nó là một
trong những
sợi dây nối tôi với ấu thời của mình, hồi trước chiến tranh tại Ba
Lan....
FEVER
Poland like a dry fever on
the lips of an emigre. Poland,
a map pressed by the steam
irons
of long-distance trains.
Don't forget
the taste of the first
strawberry,
rain, the scent of wet
lindens
in the evening; heed the
metallic sound
of curses; take notes on
hatred,
the sheared coat of
alienation;
remember what links and what
divides.
A land of people so innocent
that
they cannot be saved.
A sheep praised by a lion
for its right conduct, a poet
who always
suffers. Land without sting,
confession
with no mortal sins. Be
alone.
Listen to the song of an un-christened
blackbird. The raw scent of spring is
flowing, a cruel sign.
Adam Zagajewskiz: Without
End
*
Gấu đọc
tin này, đúng lúc
đang đọc một số báo cũ, tờ Granta,
số đặc biệt về Trẻ con, Children, Mùa Thu
1996.
Đọc đúng bài viết, Những người Do Thái cuối cùng ở Warsaw. Một
hồi ức, thật thê lương.
Tác giả Abraham Brumberg viết về một chuyến thăm nghĩa địa Do Thái ở
Warsaw:
Tôi chẳng có một bà con nào nằm ở đó, nhưng trong vòng 25 năm qua, tôi
trở về
hoài hoài, bởi vì nó là một trong những sợi dây nối tôi với ấu thời của
mình,
hồi trước chiến tranh tại Ba Lan....
Thế
đấy, đọc sách báo có khi cũng
còn là một… điềm triệu!
Và điều GNV gọi là điềm triệu, tờ báo Tây, Người Quan Sát Mới. gọi là
cái oái
oăm của lịch sử!
Đương
nhiên đây là tai nạn
hàng không, vì thời tiết, vì máy móc, còn quá sớm để biết... nhưng làm
sao lại
không thấy đây là oái oăm của định mệnh, của lịch sử!
Vì muốn đến Smolensk
để tưởng niệm cuộc thảm sát của
20.000 người Ba Lan bị NKVD, tổ tiên của KGB, giết mà tổng thống Ba Lan
và các
viên chức cao cấp của chính phủ bị chết.
Chỉ ba ngày sau khi Vladimir
Poutine và Donald Tusk đến quỳ gối trước bệ thờ dựng lên để tưởng niệm
các nạn
nhân. Poutine, cựu nhân viên KGB, người tái thiết lập nước Nga, mà một
cách nào
đó đã làm người ta nhớ đến Staline, người thường bị tố cáo đã quá muốn
trở lại
truyền thống độc tài? Đúng, Vladimir
Poutine đích thân đến nghiêng mình trước bằng chứng của một trong những
tai
ương khủng khiếp của thế kỷ 20.
Họ không sợ dân chúng giận
cho những chuyện nhớ nhung thời huy hoàng xô-viết hay thời của những
chiến sĩ
«cam» đã bất chấp mọi sự trên con đường tiến đến quyền lực và thành
công chính
trị về sau này của Moscou.
Phải chờ đến năm 1990 và chờ
Gorbachev để nước Nga nhận ra trách nhiệm của mình trong vụ thảm sát mà
cho đến
giờ họ luôn luôn gán cho Nazi….
Một buổi lễ chính thức tuần
này đã tạo nên một biến cố quan trọng trong quan hệ thường gay go giữa
Varsovie
và Moscou. Nhưng 70 năm sau, một Ba Lan khác mà người đứng đầu Liên Xô
phải
nghiêng mình.
Một Balan giải phóng, một Ba
Lan có tham vọng là nước mạnh trong vùng.
Chắc chắn sự mất mát này là
một thử thách gay go của Ba Lan. Nhưng chính phủ Ba Lan vững chắc và
qua cơn
sốc này, chắc chắn Ba Lan sẽ vượt lên dù thêm một lần nữa, lời nguyền
của Katyn
ập trên số phận của Ba Lan.
*
Không
thể tin được. Katyn: Như một
trù ẻo. Nguyền rủa. Một biểu tượng bi thảm. Nó làm bạn rởn tóc gáy.
"This is unbelievable —
this tragic, cursed Katyn," Kaczynski's predecessor, Aleksander
Kwasniewski, said on TVN24 television.
It is "a cursed place,
horrible symbolism," he said. "It's hard to believe. You get chills
down your spine."
AP
Le
Premier ministre polonais
Donald Tusk s'agenouille devant le cercueil du Président Kaczynski
lors de
l'arrivée de la dépouille à l'aéroport de Varsovie. Photo AFP
«Dorénavant,
le mot Katyn
représentera pour la deuxième fois le malheur de la Pologne», écrit le
journaliste
et historien Adam Michnik dans le grand quotidien polonais Gazeta Wyborcza.
Kể từ nay, Katyn mang thêm một
cái tang nữa cho Ba Lan.
[Từ “Katyn” sẽ tượng
trưng thêm một lần nỗi bất hạnh của Ba Lan]
*
Une cruelle ironie de
l'histoire
Một sự trớ trêu độc địa của lịch sử
*
FEVER
Poland like a dry fever on
the lips of an emigre. Poland,
a map pressed by the steam
irons
of long-distance trains.
Don't forget
the taste of the first
strawberry,
rain, the scent of wet
lindens
in the evening; heed the
metallic sound
of curses; take notes on
hatred,
the sheared coat of
alienation;
remember what links and what
divides.
A land of people so innocent
that
they cannot be saved.
A sheep praised by a lion
for its right conduct, a poet
who always
suffers. Land without sting,
confession
with no mortal sins. Be
alone.
Listen to the song of an un-christened
blackbird. The raw scent of spring is
flowing, a cruel sign.
Adam Zagajewski: Without
End
Sốt
Ba Lan,
cơn sốt làm môi khô đến
nứt nẻ,
một tên di dân
Ba Lan, tấm bản đồ bị bánh sắt
chuyến tầu viễn hành cán bẹp dí.
Đừng quên vị
trái dâu tây đầu tiên, mưa,
và mùi cây đoan ướt
vào buổi chiều; hãy để ý đến âm
thanh trù ẻo
của kim khí, hãy ghi nhận về hận thù,
chiếc áo khoác méo mó của
vong thân;
Hãy nhớ những gì nối kết, những
gì chia rẽ.
Mảnh đất của những con người
quá ngây thơ
đến không thể được cứu vớt
Một bầy cừu được sư tử xoa đầu
vì ngoan ngoãn, dễ bảo,
một thi sĩ luôn đau khổ.
Mảnh đất không châm chích,
thú
tội mà chẳng có tội chết người nào. Hãy cô đơn, một mình.
Hãy nghe tiếng ca của một con
chim đen không được Chúa Ký Tô rửa tội.
Mùi trinh nguyên, trần trụi,
thô thiển của mùa xuân
đang trỗi lên, một dấu hiệu tàn bạo
Adam Zagajewski: Without
End [Không Tận Cùng]
THE POLISH BIOGRAPHICAL
DICTIONARY
IN A LIBRARY IN HOUSTON
Prince Roman Sanguszko treks
across Siberia
(Joseph Conrad will write a
story about him).
Near the end of his long life
he founds a library;
he dies universally admired.
Maria Kalergis (see:
Muchanow, Maria)
-alleged ties with the Tsar's
secret police;
"half her heart is
Polish," the other half-
unknown. Friends with Liszt
and Wagner,
Chopin's pupil. Patron of the Warsaw
theater,
renegade and patriot by
turns.
Penniless Norwid fell in love
with her (see: Norwid).
And loved her with all his
heart.
Julian Klaczko: "Short,
rather heavy-set
.... high-strung, excitable. No lack
of self-esteem"
(Stanislaw Tarnowski).
Perhaps the natural son of
the ill-famed Pelikan.
A sparkling stylist, the
glory of La Revue des Deux Mondes.
Worked with the Czartoryskis,
then employed
by the Austrian ministry
(there was no Polish one).
He expires in Krakow, paralyzed,
already dead.
So many more: Antoni Czapski
(*1792),
studied painting in England
and
France, a mason
in the lodge of Chaste
Sarmatians: virtue personified.
Joachim Namysl,
educator-we've reached the twentieth century.
Still more shadows, A to S;
this dictionary cannot be
completed.
This is your country, your
laconism.
Your indifference and your
emotion.
So much life for just one
homeland.
So much death for just one
dictionary.
Adam Zagajewski: Without End
*
Từ điển danh
nhân Ba Lan
ở một thư viện Houston
Ông Hoàng Roman Sanguszko
dong xe dạo sa mạc Siberia
(Joseph Conrad sẽ viết một
câu chuyện về ông ta).
Gần cuối cuộc đời dài, ông
thành lập một thư viện;
Ông chết, được mọi người
ngưỡng mộ.
Maria Kalergis (hãy tra từ: Muchanow,
Maria)
-chơi với mật vụ Nga
Hoàng
“một nửa trái tim là Ba Lan”,
nửa kia - đếch biết.
Bạn bè với Liszt and Wagner,
Đệ tử Chopin. Chủ nhà hát Warsaw
Bại hoại và ái quốc, tùy mùa.
Thằng cha Norwid không một xu
dính túi (hãy tra từ: Norwid …)
Yêu nàng với tất cả trái tim
Julian Klaczko : “Lùn, thô
kệch, …
nhố nhăng, bắng nhắng.
Coi mình là cái rốn của vũ
trụ (Stanislaw Tarnowski)
Có lẽ là đứa con trai tự
nhiên của Pelikan tai tiếng
một nhà văn có một văn phong lấp lánh, làm vẻ vang cho Tạp
Chí Hai Thế Giới
Làm việc với gia đình
Czartorysky,
rồi được là nhân viên của chính phủ Áo,
(đâu có tay Ba Lan nào
khác)
Tàn đời ở Krakow,
bại liệt, chết.
Còn nhiều nữa…
Vẫn còn nhiều cái bóng nữa, từ
A tới S;
Cuốn từ điển này không thể đầy đủ
*
Đó là xứ sở của GNV, của sự
hàm súc của hắn.
Của dửng dưng, của cảm xúc.
Quá nhiều đời sống, cho chỉ một
quê hương
Quá nhiều cái chết, cho chỉ một
cuốn từ điển