Chúc Mừng
Giáng Sinh 2009
Chờ Noel,
chờ Tuyết bằng bài thơ trên, há chẳng sướng
sao? (1)
Khổ thơ đầu và chót thật là thần sầu.
Có vẻ như bài thơ chỉ cần vậy?
Oct 1, 2006
NQT
Giọt
Mưa
Trời Khóc
(1) Chờ
gì nữa. Tuyết đầy trời,
lạnh cứng người.
Le Bruit Du Temps
Trong gối vọng tiếng
ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.
Phùng Cung
En me privant des
mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!
Mandelstam
[Mi lấy của ta
Biển
Trời
Gió
Cùm chân ta vào đất:
Làm sao mi cấm môi ta run?]
Nhà thơ biết rằng mặc dù sự cô đơn, tủi nhục, tiếng môi run sẽ có một
ngày nghe
được,
và thơ, như cái chai ném xuống biển, sẽ có ngày vượt biển đợi, tới bờ
mong.
Tại Voronej, vùng Crimé, chốn lưu đầy, cảm thấy giờ phút cuối cùng đã
điểm,
tiếng môi run chẳng vì thế mà câm nín:
Ta không muốn, như
một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....
Hãy học cùng với Mandelstam, nghệ thuật khó khăn:
Lắng Nghe Tiếng Thời
Gian.
[Như học cùng Phùng Cung:
Lắng Nghe Mới Rõ
Tiếng Tóc Mình Chuyển Bạc]
Nilkiata Struve
(Lời Tựa "Tiếng Thời Gian"
(tập thơ xuôi của nhà thơ Nga Ossip E. Mandelstam)
"Pour moi, pour moi,
pour moi dit la révolution"
"Tout seul, tout seul, tout seul répond le monde"
On vivait mieux auparavant,
A vrai dire, on ne peut comparer
Comme le sang bruissait alors
Et comme il bruit maintenant.
Mandelstam
LMH
giới thiệu thơ Phùng Cung
To: TT
Đã nhận Madame Phi
Tks
Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm
Mới
NQT & Mrs. Thao Tran
Giải thưởng Thơ của Hội Nhà Văn
VC dành cho Mần Thơ Ở Sài Gòn
của PTVA có vẻ như xác định điều mà Brodsky phán, trái tim của bóng đen
đã
không trụ nổi, và đây là thời biên cương nổi lên.
*
Bởi vì những nền văn minh thì
cũng có lúc đi đời nhà ma [Because
cilivisations are finite], trong cuộc đời của mỗi một nền văn minh như
thế, sẽ
xuất hiện một thời điểm mà tâm của nó trở nên bất lực, không trụ nổi,
[cease to
hold]. Vào những thời điểm như thế đó, cứu vớt nó, cho khỏi bị phân
tán, huỷ
diệt, không phải những miền, mà là ngôn ngữ.
Đó là trường hợp đã xẩy ra cho nền văn minh La Mã, và trước đó, văn
minh Hy La.
Và cái "job", giữ cho nền văn minh, thí dụ Mít, không bị phân hóa, sẽ
được làm bởi những con người miệt vườn, từ ngoại vi, chứ không phải mấy
tay ở
trung tâm, ở Hà Nội.
Trái với niềm tin thông thường, phổ thông, ngoại vi không phải là nơi
thế giới
chấm dứt mà chính là nơi khởi đầu, mở ra.
Brodsky: Hải Triều Âm [The Sound of the Tide]
Điềm
*
Ngay khi tập thơ của Em vừa ra lò, Gấu đã đi một đường chào mừng. Nay,
nhân Em
được giải thưởng, xin post lại ở đây.
Mần thơ ở Sài Gòn
*
Phản ứng của một số người về việc em ẵm giải thưởng, chứng tỏ, sự đố
kỵ, tất
nhiên, nhưng còn điều này, họ đọc không ra thơ của PTVA, tuy chưa có gì
hết,
một dấu ấn mờ nhạt, nhưng nó là một con chim báo bão, báo hiệu sự suy
tàn của
trung tâm, như Brodsky giải thích ở trên, nhưng quan trọng nữa, trong
thơ của
PTVA có dấu ấn, lại dấu ấn, của cái thường nhật, cái mỗi ngày, một điều
mà đám
người đố kỵ kia coi thường, dè bỉu, nhưng theo Gấu, đây là yếu tố không
có
không được của thơ trong nước, thay vì chỉ nói tục, chửi đổng, phô bầy
sex.
*
Trích dẫn câu của Hegel, "Cái quen thuộc là cái không được biết đến"
[Was ist bekannt ist nicht erkannt: What is familiar is not known],
Patrick
McGuinness, điểm cuốn Everyday Life, của Michael Sheringham, trên TLS,
số đề
ngày 4 Tháng Năm 2007, cho rằng, chính cái gần gụi thân cận nhất đối
với chúng
ta, là cái khó khăn nhất, cực khổ nhất, khi cảm nhận, và đây là trung
tâm của
sự tìm tòi, điều tra của tác giả cuốn Đời Mỗi Ngày, hay Mọi Ngày,
Everyday
Life. Trước, đã có những Henri Lefebvre, Roland Barthes, thí dụ.
Maurice
Blanchot, cũng triết gia Tây, như hai ông kia, định nghĩa, cái thường
nhật là
cái thân quen được khám phá ra, (nhưng đã bị phân hoá) khi lật lên cái
tấm thảm
của sự kinh ngạc, [the quotidien... as "the familiar which is
dicovered (but already dissipated) beneath the surprising].
Đây là yếu tố tuyệt vời, the key figures, hình tượng chìa khoá, trong
thơ PTPV,
vậy mà lại bị cái đám vô học, thiển cận, đố kỵ đem ra để mà chê bai. Ối
dào, ba
cái nhật ký nhảm nhí, mà thơ cái chó gì cơ chứ!
Bởi vậy, cái tay Nguyễn Duy, quả là thi sĩ, khi nhận ra điều này, ở thơ
PTVA:
Thơ Vàng Anh đơn giản như là không có gì, cảm xúc bình
dị trong cõi thực nhỏ
nhoi gần gũi mà từ tốn gợi mở những vu vơ, huyền ảo của suy tưởng. Cái
suy
tưởng từ riêng mình và cho riêng mình. Thơ ấy như nhật ký, như tự nhủ,
chỉ để
cho một mình mình đọc”.
*
What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger
"... and what are poets for in
a destitude time?",
Holderlin hỏi, trong bài điếu "Bánh mì và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night
is the
destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry
related to
the destitution of the time? How deeply does it reach into the abyss?
Where
does the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời
gian?
Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ
như có
một nơi chốn nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó.
Với kinh
nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng Ky Tô
Christ
đánh dấu bắt đầu và chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the
gods. Đêm
xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united three' - Herakles,
Dionysos,
và Christ - rời bỏ thế gian, buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm
tối của
nó. Đêm thế gian trải dài bóng tối của nó. Đây là thời thần linh trễ
hẹn [The
era is defined by the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần
linh,
default of god. Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm
không có
nghĩa chối bỏ liên hệ giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần
linh có
nghĩa, chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật thành một mối, và bằng
một mối
thâu gom như thế, lịch sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi
cùng với
nó.
*
“Hồi Võ
Phiến sang chơi Paris
và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet,
có bận tôi hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn.
Võ Phiến
đã đáp không do dự: là một nhà văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét của Võ Phiến, theo
tôi, sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn đặc biệt về ông, Gấu
này đã phán,
nay xin ghi lại ở đây:
1. Một vài ý nghĩ nho nhỏ về
thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu thuyết, truyện,
truyện ngắn vốn dễ đọc hơn thơ, kịch,
cho nên, đối với số đông độc giả, Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn
xuôi
hơn là thơ. Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu tâm tới vấn
để văn
chương, những tập Tôi không còn cô độc, Liên đêm mặt trời tìm thấy
đã
định nghĩa thế nào là thơ, thơ tự do, thơ TTT.
*
Pourquoi
des poètes en temps de
détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như thơ của một số thi sĩ khác cùng
thời với
ông, một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi trên của Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường
quan niệm thơ, từ ngàn xưa, vẫn chỉ là
những gì phù du, thơ chỉ có trong một thời bình.
Cớ sao lại
có thi sĩ, trong một
thời đại nhiễu nhương như thế này?
Đọc Thanh Tâm Tuyền
Ngay từ những ngày 1973, khi
chưa chấm dứt cuộc chiến, Gấu này đã
nhìn ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng, đúng như
Heidegger
coi
Rilke là thi sĩ của thời điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng ,
có nghĩa là: hát, chú tâm đến dấu
chân để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì thế, vào thời
gian
của đêm tối, thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong ngôn ngữ của
Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de
détresse, c'est alors : chantant, être
attentif à la trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de la
nuit du
monde, le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la langue de
Holderlin, la
nuit du monde est la « nuit sacrée ».
Pourquoi des poètes en temps
de
détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part d'Exil, Le Huu Khoa coi Trịnh
Công Sơn
là chim thiêng hót lời mệnh bạc
[Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante
le destin
tragique]
*
Holderlin phán:
Ở nơi nào có nguy nàn,
Ở đó có cứu rỗi
Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve
Holderlin, IV, 190
Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà thơ tiền chiến, đúng là "coi
thường"
ông, theo Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm đen chia
cách ông
với những nhà thơ mà ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy
Yên, nhạc
Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của Đặng Tiến, TTT không có
truyền nhân,
Gấu đã trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông làm thơ khi
viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông, phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà
văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói với ông ta, ông thấy làm thơ
dễ hơn là
viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng chỉ Một Chủ Nhật Khác
đúng là
một cuốn tiểu thuyết.
*
Trên Da Mầu, thấy có bài của
một tác giả lạ, với Gấu, vì chưa từng
nghe tên và được đọc bài nào của tay này. Xin trích dẫn ra ở đây, và
nhân đó,
lèm bèm về thơ, biết đâu có hứng, lèm bèm về một tập thơ của một người
bạn, mới
ra lò. Anh ra lệnh, phải viết một bài thật bảnh.
*
Nhưng, liệu, sau khi "ráng đỏ
qua sông", vưỡn có thơ? (1)
*
(1) Thơ bay như ráng đỏ sang
sông.
Vĩnh Biệt Lửa Thiêng
Tán
nhảm về "Ráng đỏ sang sông"
*
1) Có những
bài thơ viết muộn
Vì không thể viết sớm hơn
Ngặt nỗi thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt mắt sương thôn
NLV
*
Cái ý, "có những bài thơ viết muộn, vì không thể viết sớm hơn", theo
Gấu, nó "khủng khiếp" lắm.
Và nó liên quan đến ráng đỏ qua sông, đến giấc mộng lớn đã đạt, sáng
ngủ dậy,
thấy nước nhà thống nhất.
Nhưng chưa kịp mừng, thì đã thấy bi thương hồn Việt....
Gấu này nhớ, ông anh nhà thơ mà cũng còn mừng hụt, vì cú 30 Tháng Tư.
Ông mừng thực, khi tâm sự với thằng em, thế là mình khỏi viết nữa. Làm
một
người dân bình thường, cùng nhau xây dựng cái nhà Việt Nam!
Chẳng cần
làm thơ nữa!
Từ không làm thơ, khỏi phải viết nữa, tới bài thơ viết muộn, là cả trời
bi
thương.
Bi thương hồn Việt
Sắc chàm u hận...
Đành thôi nhang khói..
*
Theo nghĩa đó, cả tập thơ mới ra lò của NLV, chỉ là một bài thơ viết
muộn, sau
"Lò Cải Tạo"!
*
Coetzee viết về Brodsky:
Những nhà thơ gân guốc, dũng
mãnh, luôn tạo ra dòng của riêng họ,
và trong khi làm như thế, viết lại lịch sử thơ ca.
Strong poets have always
created their own lineage and, in the
process, rewritten the history of poetry.
Làm sao TTT không tiên cảm, thứ
thơ tự do của ông, mãnh liệt như
thế, hũ nút như thế, không giống ai như thế, sẽ gặp phản ứng dữ dội từ
phía độc
giả, chắc chắn khác hẳn, "làm mặt lạ", như thế?
Hãy nhớ lại phản ứng dữ dội của
tầng lớp thưởng ngoạn, khi thơ tự
do vừa xuất hiện.
Những dòng cảnh báo, ở đây, tôi
là vị hoàng đế, của vương quốc thơ
của tôi, là theo ý đó. Vô là phải thần phục vị hoàng đế với đầy đủ
quyền uy.
Trường hợp ngược lại, bạn có
thể vứt tập thơ vô thùng rác.
Cao ngạo đấy, nhưng cũng rất là
khiêm tốn đấy.
Nhà thơ nào, khi muốn tạo riêng
dòng, cũng nói như vậy, nếu tự tin
vào thơ của mình, đâu riêng gì TTT?
*
Thơ ca phải ngang với tầm vóc
của thời đại lịch sử (như thơ ca
thời Lý Trần, thơ ca thời Nguyễn Du...) TTT không có được tiếng thơ đó.
Có lẽ người đọc
hôm nay nên tôn trọng ý kiến của ông:
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ...
(“Tôi không còn cô độc”)
Nguồn
So sánh TTT với
những nhà thơ thời Lý Trần, với Nguyễn Du, là một vinh dự quá lớn lao,
tuy
nhiên, cho dù TTT có muốn nhận cũng không thể được, vì thời của ông,
cũng như
của những nhà thơ bạn ông, là thời điêu đứng, thời đêm đen, thời hố
thẳm. Thơ
của họ, là thơ của một nơi, một thời nguy nàn.
Nó có mang đến
được sự cứu rỗi hay là không, đó là vấn đề.
Theo Gấu tôi, rất
khó. Quá khó. Thơ TTT chưa làm được điểu này, chính là bởi vì thơ của
ông, cũng
như con người của ông, sạch quá. Gấu đọc Milosz và nhận ra điều này.
Những thất bại,
không có truyền nhân, và ngay cả những gì gì, "trần truồng, tuyệt
vọng", là theo nghĩa này.
*
The Apostle tells
us that in the beginning was the Word. He gives us no assurance as to
the end.
The poet of the Pervigilium
Veneris wrote in a darkening time, amid the breakdown of classic
literacy.
He knew that the Muses can fall silent:
perdidi musam....
"To perish by
silence": that civilisation on which Apollo looks no more will not long
endure.
George Steiner: The
retreat from the Word
Chúa nói khởi đầu
là Lời. Ngài chẳng thèm bảo đảm gì cho chúng ta, về cái sự tận cùng, nó
sẽ ra
làm sao.
"Lụi tàn
trong câm lặng". Dù là thi sĩ, thì cũng có lúc phải tin rằng Nàng Thơ
đã
im tiếng.
TTT có
"thoát", có "đạt" hay không? Thật khó nói, thay, cho người
đã mất. Nhưng, rõ ràng là, ông gần như đã im tiếng.
*
The holy man, the
initiate, withdraws not only from the temptations of worldly action; he
withdraws from speech. His retreat intothe mountain cave or monastic
cell is
the outward gesture of his silence. Even those who are only novices on
this
arduous road are taught to distrust the veil of language, to break
through it
to the more real. The Zen koan—we know the sound of two hands
clapping,
what is the sound of one?—is a beginners exercise in the retreat from
the word.
G. Steiner.
Thánh nhân rút dù không chỉ khỏi những dụ khị, những cám dỗ, của thế
giới hành
động. Ngài còn rút dù ra khỏi lời nói. Ngài lên non tìm động hoa vàng,
thôi thì
thôi nhé có ngần ấy thôi... Ngay cả những đệ tử của Ngài cũng được dậy,
đừng có
tin vào lời nói. Phải xé bỏ bức màn lời để tới được cõi thực. Công án,
tiếng vỗ
của một bàn tay, là bài tập vỡ lòng để rút dù ra khỏi lời nói
Note: Post lại, nhân 'xì căng
đan' Thơ từ đâu tới
3
Có
vẻ như độc giả ưa đọc thơ, và, đọc, viết về thơ.
Đây là kinh nghiệm riêng của Tin Văn, từ thuở khai sinh của nó tới giờ.
Cũng được
sáu, bẩy niên, nếu kể luôn thời ăn nhờ ở đậu VHNT của PCL. Phải từ 1998
hoặc
1999. Thời chấm dứt, và mở ra thiên niên kỷ!
"Hot Item" của Tin Văn hiện nay là
Giọt Mưa Trời Khóc và Mần
Thơ Ở
Sài Gòn.
Cũng như trước đây, mấy trang thơ NLV, THH đều là Top 25 trong tháng.
Chính vì thế mà trong tương lai, càng cận ngày xuống lỗ, Tin Văn sẽ chỉ
còn có
mỗi một Item, hot hay khong hot: Thơ.
*
Nhớ
lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
PTVA
Câu
thơ làm Gấu nhớ Tiếng động thời gian, tập tản văn [không
Thứ Sáu], của Osip Mandelstam.
Hành trang của Mandelstam, là những cuốn sách, và "tiếng động của thời
gian", "le bruit du temps".
[Georges Nivat giới thiệu tập tản văn của nhà thơ Nga]
Và
nỗi hoài nhớ quá khứ ám ảnh ông:
Người
ta sống khá hơn, trước đây
Thật ra, người ta không
thể so sánh
Máu bây giờ
Và máu ngày xưa
Nó rù rì khác nhau như
thế nào.
On vivait mieux auparavant
A vrai dire, on ne peut
pas comparer
Comme le sang
ruisselait alors
Et comme il bruit
maintenant.
[Trích
Tiếng động thời gian, bản tiếng Tây, lời giới thiệu]
Hà Nội của anh, trước 1954, tụi này không có.
Sài Gòn của anh, trước 1975, tụi này cũng không có.
Đang lèm bèm về
thơ, vớ được bài này, tuyệt.
Bài viết làm
nhớ đến hai câu phán của Borges
Thơ là để trao cho thi sĩ
Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ
Cả hai đều ứng vào bài viết.
Không có kiểm
duyệt, là không thể viết được bài viết này.
Không phải thi
sĩ là cũng lại càng vô phương, viết nó.
Nhưng, nếu Tố Hữu
không phải là thi sĩ, thì cũng… hỏng.
Thành thử câu
phán chót mới thật là tuyệt vời!
Tôi nhớ lần tôi cùng
Nguyễn Minh
Châu đi chiến trường,một lần ở miền tây Thừa Thiên, trời mưa không dứt
suốt
ngày. Tôi đọc thơ :
Nỗi niềm chi rứa
Huế ơi
Mà mưa trắng đất trắng
trời Thừa Thiên
Châu hỏi :
- Thơ ai mà hay vậy ?
- Thơ Tố Hữu
-Ông ấy làm thơ giỏi hơn làm quan,
ngược lại thì tốt.
*
Ui chao, cái ông thi sĩ thầy
thuốc, không biết có ngộ ra không, sau khi đọc câu trên, và sau chuyến
đi tìm
thơ ở đâu?
Gấu
vs Tố Hữu
Ông ta đúng ra là không nên đứng kế bên
lãnh tụ.
Đang loay hoay viết về Nguyễn
Tuân, được
tin Tố Hữu mất, tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi, không hiểu có bức hình nào chụp
tác giả
Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân, đứng kế bên Mặt Trời Chân Lý Chói Qua
Tim,
tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ nào đó?
Hay "tệ" hơn nữa, đứng kế bên ông Hồ?
*
"Ông ta đúng là không nên đứng kế bên Khrushchev". Câu này của
Volkov, khi phải nhận định về nhà soạn nhạc lừng danh Shostakovich,
trong một
lần trò chuyện với nhà thơ Brodsky, xung quanh đề tài nhà thơ đưa ra:
Khi bạn
bắt đầu chơi trò "biên tập" [editing] đạo hạnh, đạo đức của bạn –
rằng cái này được phép, cái kia không được, vào những ngày như thế đó –
như vậy
là bạn đã đánh đu với tinh, đã mấp mé bên bờ thảm họa.
Volkov kể lại, một lần ông cần vài bức hình nhà soạn nhạc, từ thư khố
nhà nước.
Tuy đã phải trả tiền trước, nhưng một "phu nhân sắt" (an iron lady)
vẫn kiểm tra từng tấm, và chừa lại ba, hình nhà soạn nhạc đứng kế bên
Khrushchev. Phu nhân sắt cũng chẳng thèm mất công giải thích. Tôi
[Volkov] bắt
buộc phải hiểu rằng nhà soạn nhạc không nên đứng kế bên lãnh tụ, vào
thời gian
mà ông ta là một người không thể chấp nhận được (persona non grata).
Đọc bài viết của Trần Dần, về thơ Tố Hữu, (được đăng lại trên
talawas.org), vào
đúng thời của ông ta – tức là không thể chấp nhận được đó – tôi mới
thấy thế
nào là hào khí Nhân Văn Giai Phẩm, và cùng với nó, cái gọi là sĩ khí
Bắc Hà.
Note: "Ý kiến ngắn", trên, Gấu
viết
cho ta là gì nhân nghe tin Tố Hữu ngỏm. Ta là gì cho
biết, sẽ
đăng.
Khi đăng, Gấu đọc, thấy bị thiến mấy chữ "tệ" hơn nữa.
Cáu quá, meo hỏi. Bà chủ quán xin lỗi, nói, đệ tử tự ý thiến.
Đúng ra, bà phải đăng trên ta là gì, xin lỗi độc giả ta là
gì.
Gấu đâu cần bà xin lỗi?
Nay, post lại, và xin lỗi độc giả ta là gì, về cái phần sơ sót
của Gấu.
NQT
Cụ Mác
Tôi cố tưỏng tượng ra mùa đông
cuối cùng của
ông,
Luân Đôn, lạnh, ẩm.
Tuyết đè ngửa, hôn tàn bạo lên phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng
sông Thames.
Bướm co ro, run rẩy nhóm lửa nơi công viên.
Có tiếng sụt sùi của những đầu máy, ở đâu đó trong đêm.
Những người thợ nói quá nhanh trong tiệm rượu,
khiến ông không kịp bắt, dù chỉ một từ.
Có lẽ Âu Châu thì giầu có hơn, và thanh bình,
nhưng người Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô thì sao? Bạo chúa của nó? Siberia,
chốn
lưu đầy ư?
Ông trải qua những buổi tối mắt
dán lên những
tấm màn cửa.
Ông không thể nào tập trung, viết lại những tác phẩm đã xưa, cũ,
đọc lại Marx trẻ cho tới hết ngày,
và thầm lén ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này.
Ông vẫn còn niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái đản của mình,
nhưng vào những lúc hồ nghi,
ông đau lòng vì đã đem đến cho thế giới,
chỉ một viễn ảnh mới của sự thất vọng, chán chường;
rồi ông nhắm mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài bóng tối của mí mắt
của mình.
-Adam
Zagajewski
(Translated,from the Polish, by
Clare
Cavanagh.)
[The New Yorker, Jan 21, 2008]
[Eternal Enemies p. 97]
Adam Zagajewski
Chúc sức khoẻ
Thursday, December 17, 2009
1:12 PM
From:
To:
Trụ,
Tao mới vào địa chỉ của mày,
thấy hình mới nhất (?) của mày posted ở giữa trang, mặt trông mập ra,
già hơn
và có vẻ yếu hơn trước. Sức khoẻ mày lúc này thế nào? Ăn uống có còn
bình
thường không? Chúc sức khoẻ mày. Chúc cả nhà có những ngày lễ, Tết vui
vẻ, đầm
ấm.
Tks.
The same to U and All,
there.
Hình mới chụp, tháng trước.
Chắc sắp theo Cụ Mác rồi!
Không biết có gặp Bác Hồ ở
dưới đó không ?
Và không biết Bác đã bỏ Đảng chưa?
NQT
MUSIC
HEARD
Music
heard with you
was more than music
and the blood that flowed
through our arteries
was more than blood
and the joy we felt
was genuine
and if there is anyone to
thank,
I thank him now,
before it grows too late
and too quiet.
Adam Zagajewsk
Nghe nhạc
Nghe
nhạc mí Em
Thì nhạc biến thành thần nhạc,
tiên nhạc!
Và máu chảy trong huyết quản
của đôi ta,
thì hơn bất cứ một thứ máu đỏ
da vàng nào!
Và niềm vui của đôi ta,
mới thực làm sao!
Và nếu có một người để mà
cám ơn,
Thì Gấu bèn cám ơn người đó, bây
giờ,
Trước khi quá muộn
Và quá êm ả.
Bài
thơ này mà mượn, làm đề từ,
để viết về cái lần đầu tiên được nghe Yanni, thì mới đã làm sao!
Ba thứ
sách quí, Gấu thường có
tới… hai ấn bản, một Ảnh, một Tẩy, vì, lúc nào cũng hăm he dịch, cống
hiến độc
giả Tin Văn!
SELF-PORTRAIT, NOT WITHOUT DOUBTS
Enthusiasm moves you in the
morning,
by evening you lack the nerve
even to glance at the
blackened page.
Always too much or too
little,
just like those writers
who sometimes bother you:
some so modest, minimal,
and under-read,
that you want to call out –
hey, friends, courage,
life is beautiful,
the world is rich and full of
history.
Others, proud and serious,
are distinguished
by their erudition
- gentlemen, you too must die
someday,
you say (in thought).
The territory of truth
is plainly small,
narrow as a path above a
cliff.
Can you stick
to it?
Perhaps you've strayed
already.
Do you hear laughter
or apocalyptic trumpets?
Perhaps both,
a dissonance, ungodly grating-
a knife that skates
along the glass and whistles
gladly.
Chân dung tự
vẽ, với chút hồ
nghi
Buổi sáng thì hăm hở lắm,
Buổi chiều lừ đừ như ông từ
giữ đền.
Chẳng còn hơi sức nhìn trang
giấy đen thui.
Luôn nhiều quá, hoặc ít
quá
Như những nhà văn làm bạn bực
mình:
Ông thì hiền quá, nhí quá,
Và không được đời biết tới
Và bạn muốn la lên:
Này, bồ tèo, hãy can đảm lên,
Đời thì đẹp
Thế giới thì giầu có, đầy
chuyện này, chuyện nọ
Những người khác, hãnh diện,
nghiêm nghị và rất đáng kính trọng,
bởi sự uyên bác.
Ôi, mấy ngài nghe đây,
Mấy ngài thì cũng phải chết,
một ngày nào đó
Bạn nói [ở trong đầu bạn]
Mảnh đất sự thực thì nhỏ xíu
Hẹp như một cái khe, cái rãnh, ở trên
mỏm núi
[Đừng lầm với khe hạ]
Ngài có thể bám vào nó?
Có thể, ngài đã bị lạc đường
rồi
Ngài có nghe tiếng cười,
Hay tiếng kèn
Của Quỉ?
Có lẽ cả hai.
Tiếng nghiến răng của nó nghe
thật ớn –
Con dao lướt trên mặt thuỷ
tinh,
Tiếng huýt sáo thật là
vui
Adam
Zagajewski
*
Giọt
Mưa
Trời Khóc
Phê bình gia thứ
thiệt, Nabokov có lần đưa ra nhận xét, là người đọc, không phải với cái
đầu, mà
bằng xương sống lưng của anh ta. (1)
Hắn ta, giống như Gấu, đọc, đến giây phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến
thành giọt
lệ người, bỗng thấy một làn hơi hạnh phúc từ huyệt bách hội ở trên đỉnh
đầu,
theo xương sống lưng chạy xuống, rồi tỏa ra khắp cơ thể, tới từng lỗ
chân lông,
và cứ thế tê lịm người đi, và thế là biết liền tù tì, đây là thơ thần.
*
-Phách lối vừa vừa thôi, cha
nội. Bộ mi nghĩ, mi là phê bình gia
thứ thiệt?
-Phê bình gia thứ thiệt hay không, chưa cần biết. Nhưng giây phút tê
lịm người
thì có thiệt.
Date: Sun, 23 Jan 2005 11:41:44
-0800 (PST)
From:
Subject: hey
To:
Hey ong Gau, ong la cai gi tren doi nay ma viet van phach loi , hay tu
kiem
diem lai xem minh co xung dang khong?
Mot doc gia
(1) Nhà
Hội
Giới phê bình viết về Amis, ở
bên trong nhà văn Anh này, có một
ông tiểu thuyết Nga cố tìm cách xuất đầu lộ diện.
Amis, ông tri ân những bóng ma Nga, trong có Dos.
Một những dòng thư cuối khép lại cuốn truyện, đúng thứ chân truyền Dos,
hồi ký
viết dưới hầm.
Chúa Ky Tô ơi, Nga đúng là một xứ sở của ác mộng. Và luôn luôn là một
ác mộng lắc.
Và luôn luôn là thứ ác mộng lắc bảnh nhất, tài năng nhất
Christ, Russia is the nightmare country. And always the compound
nightmare.
Always the most talented nightmare.
Đoạn sau đây, mà chẳng y chang nhận định của Amis?
"Quả sẹo này là kỷ niệm một vụ em lắc 7 ngày... về nhà trong đêm em bị
hoang tưởng như có ai sắp sửa giết em đến nơi. Nai nịt gọn gàng, chân
xỏ giầy
thể thao, găm vào bụng hai con dao trong bếp rồi lao ra đường tìm giết
nó trước..."
Ác
Mộng lắc
Cũng y chang, là những nhận xét của một tay đã từng làm trùm ở Bắc Bộ
Phủ ['an
old Kremlin hand'], Viktor Chernomyrdin, cựu thủ tướng Nga: "Chúng ta
luôn
muốn điều tốt nhất, nhưng luôn hỏng giò, chổng cẳng... "
Ông này muốn nói tới công cuộc đổi mới về kinh tế của điện Cẩm Linh vào
đầu thập
niên 1990.
Nhận xét của ông sau biến thành một câu cách ngôn của nước Nga tân
thời, nhưng
hơi bị ngược lại: "Nhà nước chẳng muốn điều tốt nhất, và bất cứ một
người
dân Nga nào cũng tin tưởng như vậy". Câu này đẻ ra một hệ luận: "Nhà
nước muốn cái điều nhà nước muốn, và luôn luôn, đó là điều khốn kiếp
nhất, tồi
tệ nhất".
Cái đẹp nhất, giấc mộng lành nhất, biến thành ác mộng là vậy.
Cái điều Bắc Bộ Phủ muốn, đẹp nhất, là thực hiện công cuộc giải phóng
Miền Nam,
thống nhất đất nước. Nhưng hoá ra không phải như vậy. BBP muốn cái điều
BBP muốn
và đây là điều khốn kiếp nhất, tồi tệ nhất.
Điều gì thì hẳn mọi người đều biết rồi.
Bên sông chiều mưa tới
Bên ta cụm khói rời
Sau lưng ngày con gái
Môi son đừng biếng lười
Merry
Christmas and Happy New Year to CM
I PREFER ROSES, MY LOVE,
TO THE HOMELAND
I prefer roses, my love, to
the homeland,
And I love magnolias
More than fame and virtue.
As long as this passing life
doesn't weary me
And I stay the same,
I'll let it keep passing.
What does it matter who wins
or loses
If nothing to me matters
And the dawn still breaks,
And each year with spring the
leaves appear,
And each year with autumn,
They fall from the trees?
What do the other things
which humans
Add on to life
Increase in my soul?
Nothing, except its desire
for indifference
And its languid trust
In the fleeting moment.
1 JUNE 1916
Fernando Pessoa
Gấu yêu CM, tình yêu của Gấu,
hơn là xứ Mít!
Adam
Zagajewski
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
NEW YEAR’S EVE, 2004
You're at home listening
to recordings of Billie
Holiday,
who sings on, melancholy,
drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free
themselves from fear?
Adam
Zagajewski
Đêm Giao Thừa
Bạn ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật
hiền hòa?
Trong khi người sống không thể
nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
DEFENDING POETRY, ETC.
Yes, defending poetry, high
style, etc.,
but also summer evenings in a
small town,
where gardens waft and cats
sit quietly
on doorsteps, like Chinese
philosophers.
Adam
Zagajewski
BẢO VỆ THƠ, ETC.
Vâng, bảo vệ thơ, văn phong
cao, vv...
Nhưng cũng bảo vệ những
buổi chiều mùa hạ
Tại một tỉnh nhỏ
Nơi những khoảnh vườn, làn gió
nhẹ, và những chú mèo
Đậu nơi bậu cửa
Như những triết gia Tầu
*
WISLAWA SZYMBORSKA
A
Contribution to Statistics
Out of a hundred people
those who always know better
-fifty-two,
doubting every step
-nearly all the rest,
glad to lend a hand
if it doesn't take too long
-as high as forty-nine,
always good
because they can't be
otherwise
-four, well maybe five,
able to admire without envy
-eighteen,
suffering illusions
induced by fleeting youth
-sixty, give or take a few,
not to be taken lightly
-forty and four,
living in constant fear
of someone or something
-seventy-seven,
capable of happiness
-twenty-something tops,
harmless singly, savage in
crowds
-half at least,
cruel when forced by
circumstances
-better not to know
even ballpark figures,
wise after the fact
-just a couple more than wise
before it,
taking only things from life
-thirty
(I wish I were wrong),
hunched in pain,
no flashlight in the dark
-eighty-three
sooner or later,
righteous
-thirty-five, which is a lot,
righteous
and understanding
-three,
worthy of compassion
-ninety-nine,
mortal
-a hundred out of a hundred.
Thus far this figure still
remains unchanged.
Translated from the
Polish by
Stanislaw Baranczak
and
Clare Cavanagh
Partisan
Review 1998
Adam
Zagajewski
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
NEW YEAR’S EVE, 2004
You're at home listening
to recordings of Billie
Holiday,
who sings on, melancholy,
drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free
themselves from fear?
Adam
Zagajewski
Đêm Giao Thừa
Bạn ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật
hiền hòa?
Trong khi người sống không thể
nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the
tents of trees
and raindrops occasionally
reached me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the
scent sorrow.
Giai thoại
mưa
Anh lang thang dưới tàng cây
và những hạt mưa thỉnh thoảng
lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi buồn
"His
poems celebrate
those rare moments when we catch a glimpse of a world from which all
labels
have been unpeeled."
-Charles Simic, The New York
Review of Books
"Seldom has the muse of
poetry spoken to anyone with such clarity and urgency," wrote Joseph
Brodsky, "as in Zagajewski's case." Without End draws from each of
Adam Zagajewski's English-language collections, both in and out of
print- Tremor,
Canvas, and Mysticism for Beginners-and features new work that is among
his
most refreshing and rewarding. In lucid translations by Clare Cavanagh,
Renata
Gorczynski, Benjamin Ivry, and C. K. Williams, these poems share the
vocation
that allows us, in Zagajewski's words, "to experience astonishment and
to
stop still in that astonishment for a long moment or two."
"These poems enter and
possess you quietly. It is the quiet of a train halted on its lines.
The engine
throbs like a pulse, and there is always music in these verses, or the
echo of
music ... His is the quiet voice at the corner of the immense
devastations of
an obscene century, more intimate than Auden, yet as cosmopolitan as
Milosz,
Celan, or Brodsky."
- Derek Walcott, The New
Republic
"Filled with splendid
moments of spiritual lucidity ... [These poems] transport us into a
realm that
is majestic, boundless and unknown."
-Edward Hirsch, The Washington
Post Book
World
"Zagajewski's poems pull
us from whatever routine threatens to dull our senses, from whatever
might lull
us into mere existence. This is an astonishing book." -Philip Boehm,
The
New York Times Book Review
Những
ngày Noel, Gấu ngồi nhà
“đọc chơi” [chữ của nhà đại phê bình] ba nhà thơ, mong tìm ra cái
chung, và cái
riêng của mỗi người.
Một, nữ thi sĩ Mít, một nữ
thi sĩ và một nam thi sĩ Ba Lan.
Thâu hoạch cũng không tệ.
Adam
Zagajewski
Thơ của
ông ngợi ca những khoảnh
khắc, khi chúng ta thoáng nắm bắt một thế giới mà mọi nhãn hiệu dán lên
nó đều là
nhảm cả.
-Charles Simic, The New York Review of Books
“Thật hiếm hoi, nàng thơ nói,
với bất cứ ai, rõ ràng như thế, khẩn trương như thế, như là trong
trường hợp
Zagajewski,” Brodsky viết. “Không tận
cùng, lọc ra từ những tập có trước đó, có
những tập đã tuyệt bản, như Trémor,
Canvas, Mysticism for Beginners, ngoài ra còn những bài thơ mới,
trong số
những bài tươi mát, hách nhất, bảnh nhất của ông. Qua những bản dịch
thật sáng
suốt của Clare Cavanagh, Renata Gorczynski, Benjamin Ivry, và C. K.
Williams, …
những bài thơ chia sẻ một thiên hướng, nó cho phép chúng ta, qua những
từ của
Zagajewski, ‘kinh nghiệm sự kinh ngạc, và đứng sững trong kinh ngạc,
trong một
khoảnh khoắc, một chốc lát. Hoặc lâu hơn tí nữa: hai chốc lát’.”
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
Một đóng góp
cho ngành thống
kế
Trong số 100 người
những người luôn luôn hiểu biết,
bảnh hơn người khác
- 52 mạng
nghi ngờ, từng bước chân
- gần như hết, số còn lại
vui mừng vì đưa tay ra,
nếu chuyện đó không mất công,
- 49, nhỉnh hơn một tí
luôn luôn tốt
bởi vì không thể làm khác
- 4 đấng, ồ, may ra có thể 5
có thể ngưỡng mộ,
mà không thèm
muốn, hay ghen tị,
-18 mống
đau khổ vì ảo tưởng
tuổi trẻ qua quá nhanh
- 60, hơn, hoặc kém, một tí
không coi nhẹ chuyện đời
- 40 mạng, thêm 4 mạng
luôn sống trong sợ hãi
một kẻ nào đó, hay một chuyện
gì đó
- 77 mạng
có thể hạnh phúc
hai chục, cỡ đó, ở trên đỉnh
từng cá nhân vô hại, hoang dại
giữa đám đông
- nửa con số trên, ít ra là vậy
độc ác khi hoàn cảnh bắt buộc
- tốt nhất, đừng nên biết
dù con số đại khái
khôn ngoan, sau
sự kiện
-
chỉ vài cặp khôn
ngoan hơn trước
chỉ lấy sự kiện từ đời sống
- ba chục
(tôi mong mình lầm)
còng lưng vì nỗi đau
không ánh sáng loé lên trong
bóng tối
- tám muơi ba
sớm hay muộn
ngay thẳng
- ba muơi lăm, vậy là quá nhiều
ngay thẳng và hiểu biết
- ba
đáng thông cảm
- chín mươi ba
ngỏm
- một trăm phầm trăm
con số này cho tới nay chưa
thay đổi
WISLAWA
SZYMBORSKA
[Nobel văn chương]
Stanislaw Baranczak
và Clare
Cavanagh
dịch từ tiếng Ba Lan
Partisan
Review
1998
December
27, 2009 1:42 PM
From:
Hôm qua vào tiệm sách ngày
boxing day thấy quyển Les
Chuchoteurs của Orlando Figes - định
mua tặng bác làm quà Noel nhưng thấy số trang : 800 thì dội lui, bác
còn thì
giờ đâu mà đọc, sách lại in chữ nhỏ.
Thiệt là buồn khi đọc băng in
rời ngoài quyển sách lời của Emmanuel Carrère : Quyển sách này thật
hay, Figes
đặt tên lại cho người chết, cho người bị xóa tên. Đối với chúng ta đó
là những
câu chuyện, nhưng với họ, đó là cả cuộc đời.
Avec ce livre magnifique,
Figes redonne un nom aux morts, aux effacés de la mémoire. Pour nous ce
sont
des histoires, eux c’était leur vie.
Tác giả bài thơ tháng 12 là
ai vậy?
Thơ hay ghê.
*
Steiner, trong bài trả lời
phỏng vấn trên The Paris Review, khi
được hỏi, văn chương, khi tới đỉnh cao
ngất, thì còn phân biệt được của nam hay nữ, phán, văn chương khi tới
đỉnh, thì hết còn
phân biệt được.
Sai. Bây giờ thì Gấu nhận ra
như vậy.
Chứng cớ là hình ảnh giọt lệ
trời ngàn năm trước biến thành giọt lệ người trên lưng bàn tay.
Nam thi sĩ không làm sao tạo ra được hình ảnh
này, bởi vì
cùng với nó, là cả một lô huyền thoại, nào hòn vọng phu, nào là hòn đá
kiên
nhẫn (Syngué
sabour, Pierre de patirnce, của Atiq Rahimi, giải thưởng
Goncourt) ….
Đây cũng là ý mà Claude
Lévi-Strauss vinh danh tác phẩm nghệ thuật, ngàn năm trước, ngàn năm
sau
chỉ là
chớp mắt, bỏ đi vài ngàn năm như vậy, vẫn còn được!
Và đó cũng là ý của Brodsky,
khi coi thơ là một hình thức tiết kiệm tối tiết kiệm, (1) tối giản [cả
một
thế kỷ Lò
Thiêu, Lò Cải Tạo, nằm gọn trong bài thơ nhỏ xíu Kinh Cầu của Akhmatova,
thí dụ],
là thời gian được tái cấu trúc, ngàn năm biến thành một phút phù du, đủ
khô
một giọt lệ...
Gấu,
Noel, chẳng biết đi đâu,
ngồi nhà ‘đọc chơi’ ba nhà thơ, TMT, Adam Zagajewski, Wislawa
Szymborska, và
khám phá ra được nhiều điều thú vị…
Thân, kính
NQT
(1)
Trong tiểu luận "Chín
Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"), khi viết về bài
thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức] Rilke, Brodsky cho
rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận, là một bài thơ, ấy
chỉ vì lý
do tiết kiệm. Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật,
và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những phương cách dồn nén, sao cho
ở bầu
thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là ngôn ngữ, nghĩa là thực tại, ở dạng
nén cao
cấp của nó. Nói ngắn gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà chẳng nhận bao
nhiêu" [bài thơ không phản ảnh, mà là sản sinh].
Thơ Trẻ ở trong nước
*
Tôi yêu người yêu thật là
xa
“Xa”, ở đây, là ngàn ngàn kiếp kiếp, như ý của câu sau, tình trong ngàn
kiếp....
Nam
thi sĩ, hay nói chung, nam nhi, chí lớn, làm sao có sự chung tình như
thế này?
Thơ TMT, nói chung, rất thật
thà, đôn hậu, bởi vậy, nhiều người lầm, chỉ vào những lúc ‘sinh tử’ thì
dòng thơ
thần mới bật ra!
*
Bởi vì làm thơ, in thơ, đọc
thơ, đều là những gì liên quan đến hạnh phúc.
Cho dù là thứ hạnh phúc vào
lúc xế chiều.
Như nến muộn.
*
Gấu quên một thứ hạnh phúc:
viết về thơ.
Nhất là lúc về già, còn vài
ngày rảnh rỗi, chờ ới một tiếng là đi.
Không phải để khen để chê, mà
để học.
Giống như một triết gia, Gấu
quên tên, bị kết án tử, chờ hành quyết, xin được học thổi sáo. (2)
Gấu cũng muốn được như vậy,
viết về thơ, viết được chữ nào cười khoái trá chữ đó, để những giây
phút cuối,
không bị hồn ma bóng quế, không bị cái cô đơn hành hạ, như một lời 'cầu
chúc'
của một bạn đọc.
Hôm trước, viết đến cái giây
phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến thành giọt lệ người, Gấu sướng tê
người, bồi
hồi nhớ lại những giọt nước mắt ngày nào của Bông Hồng Đen, nhỏ xuống
vì Gấu,
khi Gấu được mấy anh VC thưởng cho hai trái mìn claymore ở nhà hàng Mỹ
Cảnh,
ngay bến đò Thủ Thiêm, Cột Cờ Thủ Ngữ, bến tầu Sài Gòn.
Đang nói chuyện thơ, vớ được
bài trên Người Kinh Tế, điểm cuốn viết về hai ông thi sĩ nổi cộm nhất ở
Anh, đã
từng đi học chung, từng là bạn thân, và là hai trong số những người mở
ta
trường phái Lãng Mạn, coi tình cảm cá nhân mới là số 1, vượt lên khỏi
luật lệ
của lý trí: The Friendship: Wordsworth and Coleridge, của Adam Sisman,
nhà xb
Harprrs Press.
Giọt
Mưa
Trời Khóc
(2)
Giai thoại
này, là về Socrate – trong tù, ông học một bài hát mới – cai tù hỏi mai
chết rồi hôm nay
ông còn học à, ông nói, học đầu đời cũng như học bây giờ...
Tks. NQT
V/v
giọt lệ trời….
Bản nhạc sến ơi là sến, sến đến chết người đi
được, Xin Gọi Nhau Là Cố
Nhân, của Song Ngọc, cũng có một hình ảnh thật tuyệt.
Sáng tác năm 1969
Nhịp 2/4 Buồn, tiếc nuối Hợp
âm La thứ
1.
Tôi trở về đây lúc đêm vừa
lên
Giăng mắt trời mưa phố xưa
buồn tênh
Gót mòn tìm dư hương ngày xưa
Bao nhiêu kỷ niệm êm ái
Một tình yêu thoát trên tầm
tay
2.
Tôi trở về đây với con đường
xưa
Đâu bóng người thương cố nhân
về đâu?
Tiếng buồn chợt đâu đây vọng
đưa
Công viên lạnh lùng hoang
vắng
Ngọn đèn đêm đứng im cúi đầu
Điệp
khúc
Thu đến thu đi cho lá vàng
lại bay
Em theo bước về nhà ai
Ân tình xưa đã lỡ
Thời gian nào bôi xóa
Kỷ niệm đầu ai đành lòng
quên?
3.
Phố buồn mình tôi bước chân
lẻ loi
ray rứt trời mưa bỗng nghe
mặn môi
Nỗi niềm chuyện tâm tư người
ơi
Xin ghi nhạc lòng thương nhớ
Mình gọi nhau cố nhân u sầu.
*
Ray rứt trời mưa bỗng
nghe mặn
môi!
Giăng mắc trời mưa, phố xưa
buồn tên
Phải buồn tên mới được!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên
bài này, là chỉ có từ chết đến bị thương!
Ngọn đèn
đêm đứng yên cúi đầu
Câu trên cũng thần sầu, nhưng
nghe, thì nó ra như thế này:
Ngọn đèn đêm đứng yên cuối đầu.
Câu, Em
theo bước về nhà ai, Gấu
nghe mấy em hát, thành:
Em theo bướm về nhà ai,
Và cứ thắc mắc hoài, em là bướm, tại sao lại còn
theo bướm?
Vả chăng, nếu như thế, thì
“tình”
quá!
Em theo bướm [của em] về nhà
ai?
Mãi sau
này, nhờ kararoke, nhờ
google, mới vỡ ra!
Gấu đã nói rồi, cái hồn của văn
chương miệt vườn Miền Nam,
là nằm trong những bản nhạc sến!
Hình
ảnh Gót mòn tìm dư
hương ngày xưa, mà chẳng thần sầu sao?
Gấu đã từng mượn ý này, viết về BHD:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn
thuyền, chàng
trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười
của nàng
vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
*
Author
claims political pressure behind cancellation of Stalin book
Historian Orlando
Figes: claims publisher of book about life in Russia
under Stalin has bowed to 'political pressure'
Russian
revelations
Sách viết về Nga dưới thời Stalin, bản dịch qua tiếng Nga bị nhà xb huỷ
giao kèo
*
Stalin
no better than Hitler?
Well, at least Stalin wasn't as bad as Hitler." How many times have we
all heard that said – or said it ourselves? For a variety of
complicated reasons I still half-believe it. "At least he didn't
butcher the Jews." Hey, no, Joe butchered or enslaved everyone, Jews
included. Read The Whisperers, now that Russians can't.
Remember, it's nationalism, not nationalization, that we have to worry
about in the economic crisis.
*
Hell
Cách đây nửa thế kỷ, Hannah
Arendt viết,
cả hai chế độ Nazi và Bolshevik tạo ra "địch thủ khách quan" và
"kẻ thù khách quan", và, tùy theo hoàn cảnh, mà đội mũ nón cho chúng,
sao cho thích hợp. Khi làm thịt xong địch thủ, thì tới kẻ thù, đại khái
như
thế. Và cũng đại khái như thế, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành của mấy ông
công an
chế độ ta, không phải, khám phá tội ác, nhưng luôn trong tư thế sẵn
sàng còng
tay loại người nào vừa được nhà nước ban cho nón mũ mới.
Again: people were arrested not for what they had done, but for who
they were.
Lại nữa: nhân dân bị bắt không phải vì đã làm gì, mà đã là thứ gì?
*
One problem is that all the best-known memoirists were
trusties-prisoners
rewarded with an extra ration or a comfortable job in return for their
collaboration with the camp authorities. Solzhenitsyn even claimed that
nine
tenths of survivors had been trusties. Ginzburg, Razgon, Shalamov, and
Solzhenitsyn were all trusties, and everything they wrote must thus be
judged
with this in mind-that they survived and did so perhaps at the cost of
other people's
lives. Primo Levi wrote about the Nazi camps, "We, the survivors, are
not
the true witnesses." The "true witnesses" - those in full
possession of the unspeakable truth- are the sommersi: the
drowned, the
dead, the disappeared.
Chúng tôi, những kẻ sống sót không phải là những chứng nhân thực sự.
Những
chứng nhân thực sự, những người sở hữu đầy đủ cái gọi là sự thực không
thể nói
lên được - là những sommersi: những kẻ chết đuối, những người
chết,
những kẻ biến mất.
But
this, it seems to me, is not an explanation
of the Western public's general indifference toward the Stalinist
terror. That
must surely be explained by simple Western prejudice: whereas Hitler's
victims
were European Jews (read: urbane and educated people like ourselves),
Stalin's,
in the main, were laborers, peasants, and Communist officials from the
provincial back waters of Eurasia.
Films and
literature are also relevant. Stalin's victims have not found their
Steven
Spielberg. And while Solzhenitsyn's short novel One Day in the Life
of Ivan
Denisovich (1962) was very widely read, no Gulag memoir has the
standing in
the West of Primo Levi's If This Is a Man - though Lev Razgon's
True
Stories and Eugenia Ginzburg's Journey into the Whirlwind
certainly
deserve to be bettter known.
Nhật ký Tin Văn