*
Notes



















Biết Xấu Hổ

Bài này hiện đang hot nhất trên net. Thiên hạ khen um lên, còm rối rít, loạn xà ngầu, nhân người ngẫm đến ta, rồi so sánh ta, với đủ thứ người ngượm trên thế giới. Ai cũng biết xấu hổ, trừ... VC.
Sao lạ thế, cà?
Vấn đề này - cái sự không biết xẩu hổ là gì của đám VC bây giờ - nó liên quan hữu cơ tới cái “tự hào của tự hào” của đám VC ngày nào. Tới cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cả hai thằng thực dân cũ và mới đều thua VC....
Thử hỏi có dân tộc nào bảnh như dân tộc... VC, khi được mọi sắc dân trên thế giới mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành… Yankee mũi tẹt?
Đừng nghĩ Gấu bị tẩu hoả nhập ma, cái gì cũng đổ cho VC. Nhưng đây là một đề tài rất nghiêm túc. Gấu khổ sở vì nó, nhất là từ sau khi trở về thăm lại Đất Bắc, đi đâu cũng hơi bị được rỉ tai, này, cái vụ tham nhũng đó, ở nước người có giống nước ta không. Trả lời, không giống, thì lại bị bồi thêm cú nữa, tại làm sao “ta” lại như thế?
Gấu nhức đầu với vấn đề này trước đó, nhưng dưới dạng khác, qui về câu: Liệu Cái Đói Bắc Kít có thể giải trừ được Cái Ác Bắc Kít? Liệu Cái Đói, thay vì Cái Đẹp, sẽ cứu chuộc thế giới?
*
Nói, cái vụ không biết xấu hổ của VC, là do chiến thắng đỉnh cao giải phóng Miền Nam, đất nước qui về một mối, Ngụy không còn là Ngụy mà được giáo dục cải tạo, được phục hồi nhân phẩm và cũng được coi là..  người, là không… fair!
Chính cái sự “miệng nam mô bụng bồ dao găm”, Miền Nam không phải ở trong trái tim mà là ở… ruột tượng của chúng ông, chính cái sự dối trá hào nhoáng vĩ đại, đã đẩy đất nước xuống đáy vực thẳm. Dân Mít Miền Bắc không còn tin tưởng được bất cứ một điều gì nữa, từ Đảng, Nhà Nước, từ... Bắc Bộ Phủ.
Nhưng, Ha Jin, nhà văn TQ viết văn bằng tiếng Mẽo, trong bài viết
The Spokesman and the Tribe, giải thích một cách khác, về dân TQ, tất nhiên, nhưng thật quá đúng, nếu áp dụng một cách thông mình và thiên tài vào thực tế Miền Bắc.
*
Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.
Nguyễn Khải
Những lèm bèm, như trên, của Nguyễn Khải nhảm, đại nhảm.
Lạ, là ông khởi nghiệp văn, bằng cú đánh thẳng vào "hang ổ" của Ky Tô giáo, ở Miền Bắc, là vùng Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nếu Gấu nhớ không lầm.
Tại sao mấy ông nhà văn VC lại ưa nhắc tới Thượng Đế, Thập Tự, sau khi đã từ bỏ... Thượng Đế?
Có vài câu trả lời sau đây.
Một khi thần thánh hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la liberté, trong Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie.
Nói rõ hơn, đây là hiện tượng 'ăn trả bữa' của mấy người bịnh khi hết bịnh.
Nhưng, có lẽ câu trả lời của Jean Améry, là thú vị, và rất ư là cần thiết cho mấy ông nhà văn VC.
Ông Thánh của Lò Thiêu, như nhà văn Nobel, Kertesz, gọi, viết, trong một tiểu luận, "Làm cách nào vượt lên trên cái không thể vượt lên trên, cái quá cả tội ác, và hình phạt": Điều độc nhất khiến tôi phân biệt tôi, với đám quản giáo, là một niềm âu lo, một nỗi băn khoăn. Nó lay động ở trong tôi, đôi khi thật mãnh liệt. Chắc chắn một điều, đây không phải là một băn khoăn siêu hình, mà là xã hội [sociale].
Điều hành hạ tôi, không phải là, Có hay Không Có Thượng Đế, Hữu Thể hay Hư Vô, mà chính là Xã Hội.
Chính xã hội tước bỏ niềm tin cậy của tôi về thế giới.
Đối với tôi, không phải thật khó khăn làm người, cho nên, thôi thì đành làm bọ!
[Ce n'est pas parce qu'il m'est devenu difficile d'être un être humain que je suis devenu un être inhumain.]
*
Áp dụng một cách thông minh và thiên tài, câu của Ông Thánh Lò Thiêu vào Việt Nam sau 1975, cộng thêm nhận xét của anh VC nằm vùng Đào Hiếu, thì nó như thế này:
Thật quá khó làm người, khi chiến lợi phẩm thì đầy rẫy, cho nên tôi ăn bậy, và gen bị đột biến, và biến thành ruồi.
*
Hoàng Hưng, trong một bài trên talawas, cho rằng, do phế bỏ truyền thống, mà xẩy ra đại họa băng hoại đạo đức hiện nay.
Cái chuyện phế bỏ truyền thống, có, nhưng chưa đủ, để đưa đất nước xuống vực thẳm.
Những lời dối trá của nhà nước, mới gây đại họa.
Cioran, như trên, thì cho rằng, do phế bỏ Thượng Đế mà gây họa.
Tuy nhiên, Ha Jin cho rằng, có một sự khác biệt giữa hai xã hội, TQ và Tây Phương, và con người, vì là sản phẩm của xã hội, nên “dính trấu”. Theo ông, người TQ không tin có đời sau. Như đoạn dưới đây cho thấy, khi Ha Jin viết về Solz.
"All my life consists of only one thing-work," he once said. The village of Cavendish didn't even have a doctor at the time, according to his biographer D. M. Thomas, and, because of sciatica, the aging Solzhenitsyn would stand at a lectern when writing. What made him so tenacious, I believe, was not only his dedication to work but also his Christian faith, which had inculcated in him a sense of continuity beyond this life. The belief in the afterlife can enable one to live this life fearlessly. At an interview before departing for Russia, Solzhenitsyn was asked if he feared death, and he replied with obvious pleasure on his face: "Absolutely not! It will just be a peaceful transition. As a Christian, I believe there is life after death, and so I understand that this is not the end of life. The soul has a continuation, the soul lives on. Death is only a stage, some would even say a liberation. In any case, I have no fear of death." In another context he said, "The goal of Man's existence is not happiness but spiritual growth.". That may account for the spiritual strength with which he completed his work in exile.
His words remind me of my meeting with a group of Chinese poets in River Falls, Wisconsin, in the summer of 2001. One of them was my former schoolmate. He greatly admired the small mid-western town because its climate and landscape brought to mind the northeast of China where we were both from. I asked him, "If possible, would you mind living in this town alone so that you can concentrate on writing poetry?" He answered, "I need a friend at least." That was a typical Chinese answer. The Chinese mind does not rely on a power beyond humanity for spiritual sustenance. This explains why very few Chinese exiles in North America have lived in isolation and why most of them have been city dwellers. Gregariousness is only a surface characteristic, and deep down it is the absence of the religious belief that produces a different outlook on life.
Người Việt, Nam hay Bắc đều tin vào tôn giáo. Và tin vào chuyện làm điều thiện, để phước đức cho con cái. Đều tin vào chuyện “đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
Khi phá huỷ chùa chiền, nhà thờ, VC đã làm mất niềm tin đó. Và cái câu “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, biến thành, “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.



Mất bố nó cái thang!

Cuộc thi nước nào chịu đói được lâu nhất !?
Ba người đại diện cho 3 quốc gia Afganistan, Cuba và Việt Nam lọt vào vòng chung kết:
Osama bin Lađen, Fidel Castro và Bác H.
Người ta nhốt ba người trong ba cái nhà lao có một cái chuông điện và bỏ đói họ. Ai chịu không chịu nổi thì bấm chuông, chuông sẽ reo lên.
Trong ba ngày, Osama Bin Lađen đã chịu thua. Một tuần sau, Fidel Castro cũng đầu hàng. Còn Bác H, hơn 8 ngày trôi qua vẫn không ai nghe động tĩnh gì. Ngạc nhiên, người ta mở cửa vào xem thì thấy Bác H. đang bò lăn ở dưới nút bấm chuông, trông rất tội.
Bác rên rỉ: “Thằng nào chơi đểu cắt điện của cái chuông rồi!. Tao réo khan cả giọng, đứt cả hơi mà không ai nghe hết !!!! "
*
Câu chuyện trên, đã được ông nhà văn Trùm VC nằm vùng, là Vũ Hạnh [Đào Hiếu gọi là Vô Hạnh], viết ra rồi. Nhưng không có thằng cha nào chơi đểu cả, mà là chính đương sự, Bác H. tự nguyện dứt dây chuông.
Thế mới ghê!
Hình như DTH cũng kể chuyện này, trong Đỉnh Cao Chói Lọi?
Câu chuyện của Vũ Hạnh,xẩy ra tại một làng bản thượng du, và là cuộc so tài lặn, nín thở, giữa một anh cán bộ VC và một tay ác ôn côn đồ trong bản. Hắn tác oai tác quái, và nếu có ai dám chống lại, thì thách đấu, bằng cách cùng lặn xuống nước, nín thở, ai không chịu đựng nổi, trồi đầu lên trước, thì bị coi như là kẻ nói dối, kẻ thua cuộc, và bị dân bản phóng lao trúng tim liền lập tức!
Để cứu dân bản, anh VC bèn thách đấu, và, khi lặn xuống nước, lấy rễ cây cuốn chặt người cho hết trồi lên.
Tay Trùm VC nằm vùng Vô Hạnh này, là một tay hận thù giai cấp cùng cực. Gấu, ngay khi còn trẻ, đọc, chịu không thấu. Trên Tin Văn đã từng kể về một truyện ngắn của hắn.

Note: Gấu có một kỷ niệm thật thú vị về người em trai của Vũ Hạnh. Bữa nào rảnh, hầu chuyện quí độc giả.
*

Vườn Thú Tuổi Thơ
Ông Hồ muốn trong thơ phải có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau khi lấy được Miền Nam, những người Cộng Sản đã từng lên lớp về thái độ an phận thủ thường, chỉ muốn làm một phó thường dân của những nhà văn Miền Nam. Bây giờ trong số người viết ở trong nước, có người đã bằng lòng với vai trò khiêm tốn, làm một nhà văn bình thường.
Những bài viết ngắn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trên tuần báo Thanh Niên, cho thấy một văn tài, nhất là khi ông trở lại với tuổi thơ của ông.
Bài viết ngắn, về những đồ chơi con nít bằng tre, bằng đất; dưới con mắt trẻ thơ của ông, chúng thật tuyệt vời, chúng đẩy trí tưởng tượng non nớt tới những vùng trời xa lạ. Miền của những giấc mơ mà loài người có lẽ còn lâu lắm mới thực hiện nổi. Nhưng buồn thay, chỉ chơi được một chốc một lát là chúng bị gẫy, bể. Tôi không hiểu khi viết như vậy, ông có muốn ám chỉ những giấc mộng lớn mà những người như ông đã từng theo đuổi, cuối cùng vỡ ra như những thứ đồ chơi con nít. Những giấc mộng càng lớn lao bao nhiêu, càng phù du bấy nhiêu. Chúng bắt buộc phải như thế, để cho nhân loại cứ trẻ thơ mãi, về những giấc mơ chẳng bao giờ đạt được.
Hay là ông tự trách móc những con người như ông đã không đủ khả năng tạo ra được một thiên đường bền vững ở trên trái đất này. Tôi vẫn nghĩ, nếu có một thành quả nào đó, của việc "giải phóng" Miền Nam, đó là nó đã cho chúng ta được đọc những trang sách như của Hoàng Phủ Ngọc Tường, về vườn thú tuổi thơ của ông. Hoặc của một số người viết ra đi từ Miền Bắc, về một Hà-nội giấu kín tận đáy sâu tâm hồn những đứa con của nó, không phải chiến thắng Miền Nam, mà chính những đợt bom B. 52 đã khui quật lên.
Tôi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường rất ít, trước và sau 1975. Cũng lại do thành kiến. Hoặc do kỷ niệm một lần đọc Vũ Hạnh. Một truyện ngắn đăng trên Bách Khoa, kể chuyện một người làm công cho một ông chủ ở thành phố. Nhân dịp nhà nước phát hành giấy bạc mới, người làm công xin phép ông chủ về quê chơi, thăm bà con họ hàng, và xin chủ cho mượn tờ giấy bạc mới đó. Về nhà, ông cho con chơi, như một bức tranh con gà con chó, cho phép con mang khoe với con ông địa chủ kế bên, nhưng không được đổi lấy bất cứ một thứ gì. Đến đây, chắc độc giả nhận ra ẩn dụ độc địa của câu chuyện: ông địa chủ, do biết giá trị của tờ giấy bạc, xúi con đổi đủ loại đồ chơi cho thằng nhỏ hàng xóm nghèo. Trở lại thành phố, ông làm công trả lại chủ, kèm theo lời kết luận: giấy bạc mới ra, ở nhà quê chẳng ai biết, cứ tưởng là đồ chơi con nít; ông chủ đất kế nhà tôi cũng lầm.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ qua bài viết kể trên, tôi nhớ đến tuổi thơ của tôi và những món đồ chơi đầu đời của một đứa con nít nghèo nhà quê. Trong đó, có cây viết chì mầu. Ôi chao, lần đầu tiên, tôi thấy được cây chì mầu, vẽ hình con gà, con chó lên giấy, nó khác hẳn cái mầu đen của cây viết chì tôi vẫn có. Bởi vì cây viết chì mầu là của một ông cậu tôi, bà ngoại tôi đi tận Hà Nội mua về. Thấy tôi năn nỉ mãi, nhìn cặp mắt thèm thuồng của thằng cháu, rốt cuộc ông cậu nói, thôi tao cho mày, nhưng giấu kỹ đi, kẻo mẹ tao nhìn thấy.
Kỷ niệm về cây viết chì mầu, tôi nhớ lại, khi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đọc Rushdie, và giấc mơ về một quê hương, một thành phố Bombay mầu Cinémascope, Technicolor của ông.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi còn nhớ đến Vũ Hạnh. Và André Gide.
Nhà văn Pháp này, sau khi đi Liên-xô về phang một câu: Tất cả những tình cảm tốt đẹp chỉ đẻ ra một thứ văn chương tồi. (C’est avec les plus beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature).
Đúng là một lời trù ẻo văn chương hiện thực xã hội. Có một thời gian dài, tôi tâm đắc với câu văn, nhưng dần dần, theo tuổi đời, sau bao giấc mộng, bao tình cảm đẹp hao hụt dần, tôi nhận ra một sự thực cay đắng: câu của Gide không phải trù ẻo văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa không thôi, mà là tất cả những tình cảm tốt đẹp của con người. Đặt ngược lại vấn đề, với câu chuyện của Vũ Hạnh làm một cái cớ, chúng ta có thể hỏi: ai cho phép anh nhân danh những tình cảm đẹp để quyết định số phần của cả một đất nước? Và liệu có phải đó là những beaux sentiments thực sự không?
Ai cho phép anh... Solzhenitsyn cũng đã từng đặt câu hỏi như vậy, trong Khu Ung Thư. Nhân vật của ông được một bác sĩ hết lòng chữa trị, nhưng anh ta cứ lắc đầu bai bải, không được, không được. Con người tôi có đây, là nhờ một tí bịnh, một tí xấu đó. Nó là một phần thân thể của tôi. Chữa hết bịnh rồi, tôi làm sao sống, tôi ở với ai.
Đọc những tác phẩm hậu-Solzhenitsyn, từ một nước Nga rã rời sau Cách Mạng, chúng ta mới cảm thấy sự trớ trêu, mà chủ nghĩa Cộng Sản bầy ra cho toàn thể loài người: Chưa có một chế độ nào lại đẩy con người tới một mức thoái hóa thê thảm như chế độ toàn trị.
Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu về đạo đức con người. (Tzvetan Todorov).

Jean Améry, ông Thánh của Lò Thiêu, như nhà văn Nobel, Kertesz, gọi, viết, trong tiểu luận, "Làm cách nào vượt lên trên cái không thể vượt lên trên, cái quá cả tội ác, và hình phạt": Điều độc nhất khiến tôi phân biệt tôi, với đám quản giáo, là một niềm âu lo, một nỗi băn khoăn. Nó lay động ở trong tôi, đôi khi thật mãnh liệt. Chắc chắn một điều, đây không phải là một băn khoăn siêu hình, mà là xã hội [sociale].
Điều hành hạ tôi, không phải là, Có hay Không Có Thượng Đế, Hữu Thể hay Hư Vô, mà chính là Xã Hội.
Chính xã hội tước bỏ niềm tin cậy của tôi về thế giới.
Đối với tôi, không phải thật khó khăn làm người, cho nên, thôi thì đành làm bọ.
[Ce n'est pas parce qu'il m'est devenu difficile d'être un être humain que je suis devenu un être inhumain.]
Ceux qui pendant le Troisième Reich ont fui le Troisième Reich, en se taisant, en lançant un regard courroucé à l'adresse du rapporteur SS Rakas, en ébauchant un sourire de compassion à notre égard, ou en baissant les yeux de honte, tous ceux-là n'étaient pas assez nombreux pour imprimer à ma statistique non chiffrée une orientation salvatrice.
Jean Améry
: Làm cách nào vượt lên trên cái không thể vượt lên trên, cái quá cả tội ác, và hình phạt
*

En fait, B. est inspiré de plusieurs auteurs, notamment Jean Améry (1). J'ai vu une photo de lui dans un livre, une photo qui m'a beaucoup touché et servi de fil directeur pour écrire Liquidation. Il était assis sur un banc, on ne voyait que la moitié de son corps, sa main droite pendait dans le vide. Son visage était beau, mais triste et amer ... Je n'ai cessé d'y penser.”
Trần Minh Huy phỏng vấn Kertész
Nhân vật chính trong cuốn Thanh Toán, Liquidation, của Kertesz, là từ Ông Thánh Lò Thiêu.

Biết Xấu Hổ

Bài này trên Blog Osin, hiện đang hot nhất trên net. Thiên hạ khen um lên, còm rối rít, loạn xà ngầu, nhân người ngẫm đến ta, rồi so sánh ta, với đủ thứ người ngượm trên thế giới.
Ai cũng biết xấu hổ, trừ... VC.
Sao lạ thế, cà?
Vấn đề này - cái sự không biết xẩu hổ là gì của đám VC bây giờ - nó liên quan hữu cơ tới cái “tự hào của tự hào” của đám VC ngày nào (1). Tới cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cả hai thằng thực dân cũ và mới đều thua VC....
Thử hỏi có dân tộc nào bảnh như dân tộc... VC, khi được mọi sắc dân trên thế giới mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành… Yankee mũi tẹt?
Đừng nghĩ Gấu bị tẩu hoả nhập ma, cái gì cũng đổ cho VC. Nhưng đây là một đề tài rất nghiêm túc. Gấu khổ sở vì nó, nhất là từ sau khi trở về thăm lại Đất Bắc, đi đâu cũng hơi bị được rỉ tai, này, cái vụ tham nhũng đó, ở nước người có giống nước ta không. Trả lời, không giống, thì lại bị bồi thêm cú nữa, tại làm sao “ta” lại như thế?
Gấu nhức đầu với vấn đề này trước đó, nhưng dưới dạng khác, qui về câu: Liệu Cái Đói Bắc Kít có thể giải trừ được Cái Ác Bắc Kít? Liệu Cái Đói, thay vì Cái Đẹp, sẽ cứu chuộc thế giới?
(1) Có vẻ như bài viết của nhà đại phê bình gia, Cần giáo dục dân Mít..., được ‘gợi hứng’, từ bài viết của Gấu, chăng?

Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.
Nguyễn Khải
Những lèm bèm, như trên, của Nguyễn Khải nhảm, đại nhảm.
Lạ, là ông khởi nghiệp văn, bằng cú đánh thẳng vào "hang ổ" của Ky Tô giáo, ở Miền Bắc, là vùng Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nếu Gấu nhớ không lầm.
Tại sao mấy ông nhà văn VC lại ưa nhắc tới Thượng Đế, Thập Tự, sau khi đã từ bỏ... Thượng Đế?
Có vài câu trả lời sau đây.
Một khi thần thánh hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la liberté, trong Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie.
Nói rõ hơn, đây là hiện tượng 'ăn trả bữa' của mấy người bịnh khi hết bịnh.
Nhưng, có lẽ câu trả lời của Jean Améry, là thú vị, và rất ư là cần thiết cho mấy ông nhà văn VC.
Ông Thánh của Lò Thiêu, như nhà văn Nobel, Kertesz, gọi, viết, trong một tiểu luận, "Làm cách nào vượt lên trên cái không thể vượt lên trên, cái quá cả tội ác, và hình phạt": Điều độc nhất khiến tôi phân biệt tôi, với đám quản giáo, là một niềm âu lo, một nỗi băn khoăn. Nó lay động ở trong tôi, đôi khi thật mãnh liệt. Chắc chắn một điều, đây không phải là một băn khoăn siêu hình, mà là xã hội [sociale].
Điều hành hạ tôi, không phải là, Có hay Không Có Thượng Đế, Hữu Thể hay Hư Vô, mà chính là Xã Hội.
Chính xã hội tước bỏ niềm tin cậy của tôi về thế giới.
Đối với tôi, không phải thật khó khăn làm người, cho nên, thôi thì đành làm bọ!
[Ce n'est pas parce qu'il m'est devenu difficile d'être un être humain que je suis devenu un être inhumain.]
*
Áp dụng một cách thông minh và thiên tài, câu của Ông Thánh Lò Thiêu vào Việt Nam sau 1975, cộng thêm nhận xét của anh VC nằm vùng Đào Hiếu, thì nó như thế này:
Thật quá khó làm người, khi chiến lợi phẩm thì đầy rẫy, cho nên tôi ăn bậy, và gen bị đột biến, và biến thành ruồi.

Hoàng Hưng, trong một bài trên talawas, cho rằng, do phế bỏ truyền thống, mà xẩy ra đại họa băng hoại đạo đức hiện nay.
Cái chuyện phế bỏ truyền thống, có, nhưng chưa đủ, để đưa đất nước xuống vực thẳm.
Những lời dối trá của nhà nước, mới gây đại họa.
Cioran, như trên, thì cho rằng, do phế bỏ Thượng Đế mà gây họa.
*
Tuy nhiên, Ha Jin cho rằng, có một sự khác biệt giữa hai xã hội, TQ và Tây Phương, và con người, vì là sản phẩm của xã hội, nên “dính trấu”. Theo ông, người TQ không tin có đời sau. Như đoạn dưới đây cho thấy, khi Ha Jin viết về Solz.
“Trọn đời tôi, chỉ lo viết có một thứ”, ông có lần nói như vậy. Ngôi làng Cavendish, theo nhà viết tiểu sử Solz vào lúc đó không có một vị bác sĩ, mà do bị bịnh thần kinh hông, nhà văn có tuổi Solz cứ phải đứng viết. Điều gì làm ông kiên trường như thế, theo tôi, [Ha Jin] không phải chỉ vì ông lo quá cho cái chuyện viết chỉ một điều đó, mà còn vì niềm tin Ky Tô của ông, chính cái niềm tin này kéo thành một dải, một sự liên tục vượt khỏi cuộc đời này. Chính cái niềm tin còn có một “sau-đời” khiến con người có thể sống cuộc đời này mà chẳng sợ hãi . Trong một cuộc phỏng vấn trước khi trở về Nga, Solz được hỏi, ông có sợ chết không, và ông trả lời với một bộ mặt thích thú: Làm gì có chuyện đó. Chỉ là một sự chuyển tiếp thật êm ả. Là một tín hữu Ky tô, tôi tin rằng có cuộc sống sau khi chết, và tôi hiểu rằng, đó không phải là chấm dứt đời sống. Linh hồn có một sự tiếp tục, và linh hồn cứ thế tiếp tục sống. Chết chỉ là một giai đoạn, và người ta có thể nói, một sự giải thoát.
Trong một đoạn khác, ông nói, “Mục đích của sự hiện hữu của con người không phải là hạnh phúc, mà là sinh trưởng, nẩy nở tinh anh."
Điều này có thể cắt nghĩa sức mạnh tinh thần của ông, từ đó, ông tiếp tục công việc của mình khi lưu vong.
Những lời nói của ông làm tôi nhớ đến cuộc gặp gỡ của tôi với một nhóm thi sĩ TQ, ở River Falls, Wis, vào Mùa Hè 2001. Một trong họ là bạn học cũ của tôi. Anh rất mê khí hậu và cảnh sắc của thành phố nhỏ này, nó làm anh nhớ tới vùng đông bắc TQ nơi cả hai chúng tôi sinh ra. Tôi hỏi anh, “Nếu có thể, anh sống một mình ở đây, để chú tâm vào chỉ việc làm thơ?”, anh ta trả lời, khó lắm, tôi cần, ít lắm cũng một người bạn.
Đúng là một câu trả lời đặc Tầu. Người TQ không trông mong vào một quyền năng vượt ra khỏi cõi người, như là một chỗ dựa về tinh thần. Điều này giải thích rất ít người TQ lưu vong tại Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng lẻ, và hầu hết trong số họ sống ở thành phố. Không thích sống cô đơn chỉ là bề mặt của vấn đề, và ở dưới nó, là sự trống vắng một niềm tin tôn giáo và niềm tin này đem đến một cái nhìn khác về cuộc đời.

Người Việt, Nam hay Bắc đều tin vào tôn giáo. Và tin vào chuyện làm điều thiện, để phước đức cho con cái.
Đều tin vào chuyện “đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
Khi phá huỷ chùa chiền, nhà thờ, VC đã làm mất niềm tin đó. Và cái câu “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, biến thành, “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.

Mao, Phật và tôi