Notes
|
Nguyễn Quốc Trụ's Blog Full
Post View | List
View
- Entry for July 28, 2008
-
CM
With Love &
20-20 Vision
Comin' Thro the Rye
- Bài dự thi đạt giải nhất cuộc thi
"Quyển
sách làm thay đổi cuộc đời"
THE LAST ROSE
You will write about
us on a slant
J. Brodsky
With Morozova I should bow and obey,
I should rise with the smoke from Dido's pyre,
I should dance with Salome,
And thus be again with Joan in the fire.
Oh Lord! You see how tired one grows
Of resurrection, and dying, and living,
Take it all except this crimson rose-
Let me feel the freshness of the gift it's giving.
1962
F. P. Morozova: 1632-1675, called Feodora
after she became a nun,
a saint in the Old Believers' church.
She was a follower of Avvakurr and died in prison as a martyr.
*
Like a white stone in the depths of a well,
One memory glimmers deep within my soul.
I can't, I don't want to fight its spell,
Joy and pain together make up its whole.
It always seems to me that he who looks
Deep in my eyes will see it without fail,
Become more thoughtful, sadder than in books,
Than someone listening to a mournful tale.
For gods, I know, it's not a great endeavor,
Turning people to things for easy glory.
So that wondrous sadness may live forever,
You've been turned into my memory.
1916
Akhmatova
Note: To U, Crimson Rose!
You've been turned into my memory.
NQT
*
Bắt trẻ đồng xanh I
- Entry for July 27, 2008
-
Dưới đây là toàn bài diễn văn của Tổng thống Clinton
tại Đại học Hà Nội.
Jennifer Tran chuyển ngữ
Tổng thống: Cám ơn các bạn rất nhiều, và chào các
bạn. Với tôi, không nơi chốn nào thích hợp hơn, để bắt đầu cuộc viếng
thăm của mình, vào thời điểm hy vọng của lịch sử chung cho cả hai nước,
bằng ở đây, Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Tôi sẽ nói một câu bằng tiếng
Việt; nếu tôi nói trật, các bạn tha hồ chọc quê nhé. Xin chao cac ban
(Vỗ tay)
Biết bao là hứa hẹn, về một đất nước trẻ trung, ở nơi các bạn. Tôi được
biết, các bạn có trao đổi với gần 100 đại học, từ Canada, tới Pháp, tới
Korea – và hiện nay, các bạn là vị chủ nhà, cho trên chục sinh viên
toàn thời gian, từ Đại học California.
Tôi kính chào những nỗ lực nhập vào với thế giới của các bạn. Lẽ dĩ
nhiên, như sinh viên ở mọi nơi, ngoài chuyện học ra, các bạn còn để ý
đến những chuyện khác nữa. Thí dụ, tháng Chín vừa qua, các bạn tuy lo
học nhưng chẳng thể không theo dõi những thành tựu của Trần Hiếu Ngân,
tại Olympic Sydney. Và tuần lễ này, học là một chuyện, chia vui với Lê
Huỳnh Đức và Nguyễn Hồng Sơn tại cầu trường Bangkok lại là một chuyện
khác nữa chứ. (Vỗ tay).
Tôi thật lấy làm vinh dự, là vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên tới Hà Nội,
và thăm Đại học. Nhưng tôi cũng ý thức được một điều, rằng lịch sử hai
quốc gia chúng ta đã có những xoắn xuýt thật đậm đà, theo nghĩa: đau
cùng đau, từ bao thế hệ đã qua, [từ đó mở ra] cùng một nguồn hứa hẹn,
cho bao thế hệ sắp tới.
Hai thế kỷ trước đây, vào những ngày non trẻ của Hiệp Chúng Quốc Hoa
Kỳ, cha ông chúng tôi đã với tay quá biển rộng trời xa, tìm bạn hàng;
và một trong những quốc gia đầu tiên chúng tôi lân la làm quen, là Việt
Nam. Sự thực là, một trong những cha ông lập nước của chúng tôi, Thomas
Jefferson, đã cố kiếm thóc giống của Việt Nam, để trồng ở trang trại
của ông, tại Virginia, cách đây 200 năm. Tới thời kỳ Đệ Nhị Chiến, Hoa
Kỳ là một khách hàng tiêu thụ đáng kể của ngành xuất cảng Việt Nam. Vào
năm 1945, nền độc lập bắt đầu, Tuyên Ngôn Độc Lập của đất nước bạn dội
lên âm hưởng những lời nói của Thomas Jefferson: “Mọi người sinh ra đều
bình đẳng. Nhân quyền Đấng Tạo Hoá ban cho chúng ta, là không thể xâm
phạm: quyền được sống, quyền được hưởng tự do, quyền vươn tới hạnh
phúc”.
Lẽ dĩ nhiên, trong 200 năm lịch sử có qua có lại đó, nó đã bị u tối ở
mấy thập niên chót, bởi cuộc xung đột mà chúng tôi gọi là Cuộc Chiến
Việt Nam, và các bạn gọi là Cuộc Chiến Hoa Kỳ. Các bạn chắc cũng biết,
tại thủ đô Washington D.C. nơi National Mall, có bức tường tang tóc,
khắc tên từng người Mỹ đã mất tại Việt Nam. Một vài cựu quân nhân Hoa
Kỳ đã nhắc tới, một tang tóc khác, ở “phía bên kia của bức tường”: sự
hy sinh của dân tộc Việt Nam ở cả hai bên cuộc xung đột – hơn ba triệu
binh sĩ và thường dân can trường.
Nỗi đau thương cùng gánh chịu đó đã đem đến cho xứ sở của chúng ta một
liên hệ không dễ gì có được. Bởi vì cuộc xung đột đó mà Hoa Kỳ hiện nay
trở thành mái ấm gia đình cho một triệu người Mỹ có gốc gác, tổ tiên là
người Việt. Bởi vì cuộc xung đột mà ba triệu cựu quân nhân Hoa Kỳ trước
đây phục vụ tại Việt Nam, cũng như rất nhiều ký giả, nhân viên tòa đại
sứ, thiện nguyện viên, và bao người khác, tất cả nguyện một lòng một
dạmãi gắn bó với xứ sở của các bạn.
Cách đây 20 năm, một nhóm quân nhân Hoa Kỳ đã bước bước chân đầu tiên,
khi tái lập mối tương thân giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Họ tới Việt Nam,
lần thứ nhất, kể từ khi chiến tranh, và trong khi dạo phố phái Hà Nội,
người dân thanh lịch của thủ đô 36 phố phường đã hỏi họ: Phải chăng các
bạn là lính Mỹ? Làm sao biết là thương hay còn giận, họ thành thực trả
lời: ờ, ờ, chúng tôi là lính Mỹ. Và họ thở phào khi nghe lời chúc: chào
mừng tới Việt Nam.
Nhiều cựu quân nhân tiếp theo nhau tới Việt Nam, trong đó có cả những
người nổi tiếng, những người được coi là anh hùng của nước Mỹ, hiện nay
phục vụ tại Quốc Hội Hoa Kỳ như Thượng Nghị Sĩ John McCain, TNS Bob
Kerrey, TNS Chuck Robb, và TNS John Kerry thuộc tiểu bang
Massachusetts, bữa nay có đi cùng với tôi, cùng với nhiều vị đại biểu
khác từ Quốc Hội của chúng tôi, một vài người trong số họ là cựu quân
nhân, trong cuộc xung đột Việt Nam.
Khi tới đây, họ đều nghĩ như nhau: để vinh danh những người đã chiến
đấu, chứ không phải để tái đấu; để cùng ôn lại lịch sử của chúng ta,
chứ không phải để dựng tượng đài đồng trụ [cho cuộc chiến]; để đem lại
cho tuổi trẻ Việt Nam cũng như tuổi trẻ Hoa Kỳ có được cơ may cùng sống
ngày mai, chứ không phải ngày hôm qua, của đất nước các bạn. Như Đại Sứ
Pete Peterson nói, một cách đầy thuyết phục: “Chúng ta không thể thay
đổi quá khứ. Điều chúng ta có thể thay đổi, là tương lai”.
Liên hệ mới mẻ của chúng ta càng mạnh mẽ thêm khi những cựu quân nhân
Hoa Kỳ mở ra những cơ quan vô vụ lợi nhằm phục vụ nhân dân Việt Nam,
như cung cấp những thiết bị cho những người bị thương tật do chiến
tranh, để giúp họ trở lại với cuộc sống bình thường. Thiện chí của Việt
Nam nhằm giúp đỡ chúng tôi đưa tro cốt những quân nhân Hoa Kỳ đã ngã
xuống về với gia đình của họ càng thắt chặt thân tình. Rất nhiều người
Hoa Kỳ, từ nhiều năm nay, đã bỏ hết tâm can sức lực vào công việc này,
trong có cả vị Bộ trưởng Cựu Chiến Binh của chúng tôi, là Hershel
Gober.
Mong ước được ấp ủ những gì còn lại, của một người thân trong gia đình
đã mất đi, là một điều bất cứ ai trong chúng ta cũng đều hiểu. Mỗi chủ
nhật, ở Việt Nam, một trong những chương trình TV được nhiều người theo
dõi nhất, là về cảnh tượng những gia đình cầu mong sự giúp đỡ của khán
thính giả trong việc tìm kiếm những người thân yêu đã mất trong cuộc
chiến: làm sao người Mỹ chúng tôi lại không xúc động, khi biết được
điều này? Và chúng tôi thật biết ơn những người dân quê Việt Nam đã
giúp đỡ chúng tôi tìm kiếm những người thân yêu trong gia đình đã mất
tích trong khi thi hành công vụ, nhờ vậy mà chúng tôi có lại được sự
bình an trong tâm hồn, vì biết được, chuyện gì sau cùng đã xẩy ra cho
họ.
Chưa hề có hai quốc gia nào, như hai nước chúng ta, nếu nói về những gì
mà chúng ta đã cùng nhau làm được, trong nỗ lực tìm kiếm những người
mất tích trong khi thi hành công vụ trong cuộc xung đột Việt Nam. Những
đoàn nhân viên Hoa Kỳ và Việt Nam cùng nhau làm việc, đôi khi ở những
nơi chốn khó khăn, nguy hiểm. Nhà cầm quyền Việt Nam cũng cho phép
chúng tôi được coi những hồ sơ, hoặc có được những thông tin của nhà
nước, nhằm tạo sự dễ dàng cho việc tìm kiếm. Và, để đáp lại, chúng tôi
đã trao cho phía Việt Nam 400 ngàn trang tài liệu liên quan tới công
cuộc tìm kiếm của quí vị. Trong chuyến đi này, tôi đã mang theo thêm
350 ngàn trang tài liệu nữa, và tôi hy vọng những tài liệu như vậy sẽ
giúp những gia đình Việt Nam hiểu được chuyện gì xẩy ra cho những người
thân yêu hiện còn được coi như là mất tích, của họ.
Hôm nay, tôi vinh dự được trao những tài liệu này cho vị Chủ Tịch nước
của các bạn, Trần Đức Lương. Và tôi có nói với ông, trước khi hết năm
nay, Hoa Kỳ sẽ cung cấp một triệu trang tài liệu khác nữa. Chúng tôi sẽ
tiếp tục dâng hiến sự giúp đỡ của chúng tôi, và yêu cầu sự giúp đỡ của
các bạn, và như vậy, cả hai đất nước cùng cảm thấy vinh dự, trong quyết
tâm làm bất cứ điều gì mà chúng ta có thể làm, như hiện đang làm, nhằm
hoàn tất tối đa công cuộc tìm kiếm những người thân yêu của chúng ta.
Sau hết, Hoa Kỳ đang tới đây, như dân chúng của các bạn đã yêu cầu
trong nhiều năm, để gặp gỡ Việt Nam, như là một xứ sở, chứ không phải
như là một cuộc chiến. Một xứ sở có mức độ cao nhất, nếu nói về con số
những người biết đọc biết viết, ở vùng Đông Nam Á; một xứ sở có những
con em trẻ trung đã đem về cho đất nước ba Huy Chương Vàng tại Kỳ Thi
Toán Quốc Tế ở Seoul; một xứ sở với những doanh gia, chủ hãng cần cù,
tài năng, vươn lên khỏi những năm tháng của cuộc xung đột và của bấp
bênh, ngại ngần, để tạo vóc dáng cho một tương lai sáng ngời.
Hôm nay, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mở ra một chương mới, vào cái
lúc mà cư dân trên mặt đất [lo] buôn bán, [thích] du lịch, [mong] hiểu
biết, trò chuyện với nhau nhiều hơn, so với trước đây. Mặc dù nền độc
lập vẫn luôn luôn là một niềm tự hào của bất cứ một quốc gia, dân tộc,
nhưng con người ngày một thích dựa vào nhau. Cuộc chuyển động của con
người [và cùng với nó], tiền bạc, tư tưởng, xuyên qua những biên cương,
cứ nói thẳng ra ở đây, là có gây nghi ngờ, ngay cả ở những con người có
thiện ý, tại bất cứ một xứ sở. Họ lo lắng về [hiện tượng] toàn cầu hóa
[thế giới], bởi vì những hậu quả về bất ổn định, hoặc không thể tiên
đoán được. Tuy nhiên, toàn cầu hóa không phải là một điều mà chúng ta
có thể dãn ra, hoặc giập bỏ. Đây là sự đồng đẳng về kinh tế, giống như
gió và nước, nếu nói về sức mạnh thiên nhiên. Chúng ta có thể làm cho
một cánh buồm no gió. Chúng ta có thể bắt nước làm ra điện. Chúng ta
làm việc cần cù, nhẫn nại để bảo vệ con người và tài sản, chống lại bão
tố và lũ lụt. Nhưng làm sao có chuyện chối bỏ sự hiện hữu của gió hay
của nước, hoặc cố gắng đuổi chúng đi chỗ khác chơi. Cũng hệt như vậy,
với [hiện tượng] toàn cầu hóa. Chúng ta có thể làm việc, để hưởng lợi
tối đa, nếu nói về thành quả, và giảm rủi ro tới mức tối thiểu, của cái
gọi là toàn cầu hóa; nhưng chúng ta không thể vờ nó đi – và nó cũng
không chịu cho chúng ta vờ nó đi đâu!
Trong thập niên vừa qua, khi thương vụ thế giới tăng gấp đôi, [mức] đầu
tư chẩy từ những quốc gia giầu tới những quốc gia đang phát triển, đã
tăng gấp sáu lần, từ 25 tỉ vào năm 1990 tới hơn 150 tỉ vào năm 1998.
Những quốc gia mở cửa nền kinh tế của họ cho thông với hệ thống thương
mại quốc tế, nền kinh tế của họ đã tăng trưởng ít ra là gấp đôi, nếu
nói về tốc độ [tăng trưởng], so với những quốc gia đóng cửa tiệm. Công
chuyện làm tới của các bạn có thể phụ thuộc rất nhiều vào buôn bán với
nước ngoài, và đầu tư. Đừng lơ là điều này, bởi vì ngay tôi đây, phải
rời bỏ cái bàn giấy của mình, chừng tám tuần tới, công chuyện làm tiếp
theo của tôi tùy thuộc vào ngoại thương và đầu tư.
Đã hơn 15 năm, kể từ ngày Việt Nam đưa ra chính sách Đổi Mới, gia nhập
khối APEC và ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Thị Trường Chung Âu
Châu, và Hoa Kỳ, và bãi bỏ nông trường tập thể, để cho chủ đất tự do,
muốn trồng gì thì trồng, và hưởng thu hoạch, từ chính lao động của
mình. Kết quả thật đáng nể, nó cho thấy bằng chứng về sức mạnh thị
trường và khả năng của dân chúng các bạn. Các bạn đâu chỉ chiến thắng
nạn suy dinh dưỡng, mà còn trở thành đất nước đứng hàng thứ nhì, về
xuất cảng gạo, và có được mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Lẽ dĩ nhiên, những năm mới rồi, mức độ tăng trưởng có chậm lại, và đầu
tư ngoại quốc giảm xuống ở đây, điều này cho thấy: mọi toan tính nhằm
tránh xa những rủi ro của kinh tế toàn cầu, là chỉ có được sự cô lập,
như là phần thưởng của nó.
Mùa hè này, Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu có nói, mà tôi trích dẫn ở đây:
“Chúng tôi chưa đạt được mức phát triển đúng mức, nếu so với những khả
năng có thể làm được, của đất nước chúng tôi. Và chỉ có mỗi một cách,
sắp tới đây, là mở cửa kinh tế.” Như vậy là, mùa hè này, như tôi tin
tưởng sẽ được coi như là một trọng điểm, một bước quan trọng, tới tương
lai phồn thịnh, [đó là sự kiện] Việt Nam đã cùng Hoa Kỳ ký Thương Ước
Chung, đây là một sự kiện lịch sử tạo dựng cơ sở cho Việt Nam sau cùng
bước vào Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế.
Theo thỏa hiệp này, Việt Nam sẽ bảo đảm cho những công dân của mình, và
theo thời gian, những công dân của những quốc gia khác, quyền được nhập
cảng, xuất cảng, và phân phối thực phẩm, hàng hóa, nhờ vậy người Việt
có quyền tự quyết định số phận cái nồi cơm nuôi sống gia đình mình.
(Nguyên văn: quyết định số phận kinh tế của riêng họ). Việt Nam đồng ý
sẽ đưa ra những quyết định quan trọng về vấn đề điều hành hệ thống
thương mại quốc tế, tăng lượng thông tin tới dân chúng, đẩy mạnh mức
phát triển kinh tế tự do và khu vực tư nhân.
Lẽ dĩ nhiên như vậy thật là tốt, cho bạn hàng của Việt Nam, như Hoa Kỳ
chẳng hạn. Nhưng như vậy cũng thật là tốt, cho chính những doanh gia
người Việt, những người đã cần cù làm việc để có được công chuyện làm
ăn buôn bán của riêng mình. Theo thỏa hiệp này, Việt Nam có thể sẽ có
thêm 1 tỉ rưỡi thu nhập nữa, từng năm và hàng năm, riêng chỉ về mặt
xuất cảng không thôi, theo như Ngân Hàng Thế Giới.
Cả hai quốc gia chúng ta đều ra đời cùng với bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Bản thương ước này là một hình thức của tuyên ngôn độc lập, một khẳng
định rõ ràng, không có cách chi nhầm lẫn được, rằng phồn thịnh ở thế kỷ
21, là tùy thuộc vào sự dấn mình về mặt kinh tế của một quốc gia, vào
với phần còn lại của thế giới.
Khung cửa rộng mới mẻ mở ra tương lai này, là cơ hội lớn lao đối với
các bạn. Nhưng không chắc như bắp là thành công đâu! Còn phải làm gì
nữa đây? Việt Nam, một xứ sở trẻ trung như thế này, 60 phần trăm cư dân
của nó là dưới 30 tuổi, và mỗi năm có thêm 1 triệu 400 ngàn người mới,
gia nhập lực lượng lao động. Những vị lãnh đạo đất nước các bạn nhận ra
rằng, nhà nước, và những cơ sở quốc doanh không thể thoả mãn, tất cả 1
triệu 400 ngàn tân lao động viên nói trên đều có việc làm mỗi năm. Họ
biết những ngành nghề kỹ nghệ đang cầm cương con ngựa kinh tế toàn cầu
hiện nay, tất cả đều dựa trên tri thức – máy điện toán, viễn thông, kỹ
thuật sinh học (biotechnology). Bạn càng mài đũng quần trên ghế nhà
trường lâu chừng nào, nồi cơm của quốc gia càng bảo đảm chừng đó.
(Nguyên văn: Điều này giải thích, những nền kinh tế trên thế giới tăng
nhanh chừng nào là do những người trẻ chịu ngồi học lâu tại trường lớp
chừng đó); chừng nào nữ giới có cơ hội học hành đồng đều như nam giới;
chừng nào những người trẻ tuổi như các bạn có mọi cơ hội để khai phá
những tư tưởng mới, rồi chuyển nó thành những cơ hội làm ăn của chính
mình.
Các bạn có thể là – nói thực với các bạn, những người có mặt tại sảnh
đường bữa nay: các bạn phải là – bộ máy tương lai phồn thịnh của Việt
Nam. Như Chủ Tịch Trần Đức Lương đã nói, sức mạnh nội tại của đất nước,
chính là sự thông minh, khả năng của những người dân của nó.
Hoa Kỳ rất kính nể sự thông minh và khả năng của các bạn. Một trong
những chương trình lớn lao nhất về trao đổi học vấn của nhà cầm quyền
đất nước chúng tôi, là với Việt Nam. Và chúng tôi còn muốn làm hơn thế
nữa. Thượng Nghị Sĩ Kerry thì ở ngay kia kìa, và như tôi vừa mới nhắc
tới ông trước đây, ông đang cầm đầu, trong một nỗ lực vận động tại Quốc
Hội Hoa Kỳ, cùng với Thượng Nghị Sĩ John McCain và những cựu quân nhân
trong cuộc xung đột, ở đây, nhằm thành lập một Hội Học Vấn Việt Nam mới
(a new Vietnam Education Foundation). Một khi đưa vào hoạt động, hội sẽ
bảo trợ 100 học bổng mỗi năm, hoặc ở đây, hoặc ở Hoa Kỳ, cho những
người [muốn] nghiên cứu, hay giảng dậy khoa học, toán học, kỹ thuật học
và y học.
Chúng tôi đã sẵn sàng rót thêm tiền bạc, nỗ lực vào những chương trình
trao đổi của chúng tôi, và như vậy là mọi chuyện sẽ tiến hành ngay lập
tức. Tôi hy vọng, một vài người trong số các bạn ở đây sẽ có cơ may
tham dự vào trong đó. Và tôi muốn cám ơn Thượng Nghị Sĩ Kerry về ý
tưởng lớn lao này. Cám ơn ngài, về điều ngài đã làm. (Vỗ tay).
Hãy cho tôi nói, một điều chẳng kém quan trọng so với học vấn, đó là:
những lợi ích của học vấn không thể tránh khỏi bị hạn chế, do những cấm
đoán thái quá, khi sử dụng nó. Chúng tôi, những người Mỹ, tin tưởng ở
tự do thám hiểm, du lịch, suy nghĩ, nói năng, đưa ra quyết định, tất cả
những gì ảnh hưởng tới cuộc sống của chúng tôi, làm giầu có những cuộc
sống của những cá nhân con người, và những quốc gia, theo những đường
hướng vượt quá kinh tế.
Bây giờ, về địa hạt này, Hoa Kỳ cũng chẳng được coi là hoàn hảo. Tính
ra là, chúng tôi đã phải mất hầu như cả một thế kỷ mới xóa bỏ được chế
độ nô lệ. Nữ giới ở Mỹ còn phải đợi một thời gian dài hơn thế nữa, mới
có quyền đi bỏ phiếu. Và chúng tôi đang cố làm sao sống, ngày một hợp
với những ước mơ của những người tạo lập ra đất nước chúng tôi, ngày
một hợp với những từ ở trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, và Hiến Pháp của
chúng tôi. Nhưng cả cái quãng đường dài 226 năm - 224 năm đó - chúng
tôi học được một vài bài học. Thí dụ, chúng tôi nhận thấy, những nền
kinh tế khấm khá hơn, một khi mà báo chí tự do khui chuyện tham nhũng,
và những tòa án độc lập có thể cam đoan, rằng những hợp đồng là phải
được tôn trọng; rằng cạnh tranh thì [mới có được sự] cường tráng, và
[bắt buộc phải] công bằng; rằng những viên chức nhà nước phải tôn trọng
luật lệ.
Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy, bảo đảm quyền thờ phụng tôn giáo và
quyền đối kháng chính trị không làm nguy tới sự ổn định của một xã hội.
Thay vì vậy, nó còn tạo dựng sự tin cậy của dân chúng vào tính công
bằng của những định chế của chúng tôi, và cho chúng tôi sử dụng tới nó,
một khi không đồng ý với một quyết định nào đó. Tất cả những điều này
làm cho xứ sở của chúng tôi mạnh mẽ hơn lên, ở cả những thời kỳ tốt
cũng như xấu. Vẫn theo kinh nghiệm của chúng tôi, những người trẻ tuổi
càng thêm tin cậy ở tương lai, nếu họ có tiếng nói trong việc tạo nên
vóc dáng tương lai, trong việc lựa chọn những nhà lãnh đạo chính quyền,
và có được một chính quyền phục vụ họ.
Nào bây giờ, hãy cho tôi nhấn mạnh điều này, chúng tôi không tìm cách
đặt để những lý tưởng trên, làm sao chúng tôi có thể làm điều đó? Việt
Nam là một xứ sở lâu đời và đã trường tồn qua bao thế kỷ. Các bạn đã
chứng tỏ cho thế giới rằng các bạn sẽ đưa ra những quyết định của chính
mình. Chỉ có các bạn mới có thể quyết định, thí dụ như chuyện này: liệu
chúng ta có nên chia sẻ với thế giới những tài năng và lý tưởng của
Việt Nam? Liệu chúng ta nên mở cửa Việt Nam, nhờ vậy, chúng ta có thể
làm cho đất nước giầu có, nhờ những nhận thức, sự sáng suốt của những
người khác? Chỉ có các bạn mới có thể quyết định có nên tiếp tục mở cửa
thị trường, mở cửa xã hội, làm mạnh luật lệ. Chỉ có các bạn mới có thể
quyết định làm thế nào đưa tự do cá nhân và nhân quyền vào trong căn
cước quốc gia Việt Nam, làm cho nó giầu có, mạnh mẽ hơn lên.
Tương lai của các bạn là ở trong tay các bạn, những cánh tay của người
dân Việt Nam. Nhưng tương lai của các bạn cũng quan trọng đối với đám
thế giới còn lại trong đó có chúng tôi nữa đấy nhé. Bởi vì, một khi
Việt Nam cứ thế mà thăng tiến, nó đem lợi ích tới cho khu vực này, cho
những bạn hàng của nó, và cho bạn bè của nó trên toàn thế giới.
Chúng tôi nóng lòng gia tăng sự hợp tác của chúng tôi bên cạnh các bạn,
về mọi lãnh vực. Chúng tôi muốn tiếp tục công việc của mình, là dọn
sạch mìn và đạn dược chưa nổ. Chúng tôi muốn đẩy mạnh những nỗ lực của
đôi bên, nhằm bảo vệ môi sinh, bằng cách từng bước hủy bỏ loại dầu
gasoline có chất chì tại Việt Nam; duy trì nguồn nước sạch để cung ứng
cho nhu cầu của dân chúng; bảo vệ vỉa san hô, và rừng nhiệt đới. Chúng
tôi muốn cố gắng hơn nữa, về cứu trợ, và ngăn ngừa thiên tai, kể cả
những cố gắng cứu trợ những nạn nhân lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu long.
Hôm qua, chúng tôi đã trình bầy với nhà nước Việt Nam, hình ảnh nhìn từ
vệ tinh, thuộc Mạng lưới Thông tin về Thiên tai Toàn cầu của chúng tôi
– những hình ảnh thật chi tiết về mức độ trận lụt mới nhất tại vùng
Đồng bằng, như vậy nó có thể giúp Việt Nam trong công cuộc tái thiết.
Chúng tôi muốn gia tăng sự hợp tác về khoa học cùng các bạn; sự hợp tác
nhắm vào tháng này nhân cuộc họp của chúng ta tại Singapore, để cùng
nhau nghiên cứu vấn đề sức khỏe và hậu quả về mặt sinh thái của độc
chất dioxin đối với dân chúng tại Việt Nam và những người Mỹ đã từng ở
đó; và sự hợp tác khoa học còn tiếp tục được đẩy mạnh sau này, qua Hiệp
Ước Khoa học và Kỹ thuật được ký kết bữa nay giữa hai quốc gia.
Chúng tôi muốn là đồng minh của các bạn, trong trận chiến nhằm chống
lại những chứng bệnh giết người như AIDS, bệnh lao, và sốt rét. Tôi lấy
làm sung sướng thông báo, chúng tôi sẽ gia tăng hỗ trợï, nếu có thể, sẽ
gấp đôi nó, trong nỗ lực cùng với Việt Nam kiềm chế hiểm họa AIDS qua
các chương trình giáo dục, phòng ngừa, chăm sóc và chữa trị. Chúng tôi
muốn hai bên cùng làm việc để cho đất nước của các bạn ngày một an toàn
hơn, bằng cách giúp các bạn giảm thiểu những tai nạn có thể gây thương
tích ở trên đường phố, ở nhà, và ở nơi làm việc. Chúng tôi muốn cùng
làm việc với các bạn, nhằm đạt tới mức tốt đẹp nhất của thương ước,
bằng cách cung cấp những trợ giúp kỹ thuật, nhằm bảo đảm hiệp ước sẽ cứ
thế mà tiến hành thật là nhịp nhàng, cho tới khi đạt được sự viên mãn
của nó, bằng cách tìm kiếm thêm nguồn đầu tư, khuyến khích nhiều người
Mỹ bỏ tiền vào Việt Nam.
Nói ngắn gọn, chúng tôi hồ hởi xây dựng phần bạn hàng của mình cùng với
Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng, điều này tốt, cho cả đôi bên. Chúng tôi
tin tưởng người Việt có tài trong thành công, trong tiến bộ, vào cái
thời đại toàn cầu hoá mới mẻ này, như họ đã từng thành công ở quá khứ.
Chúng tôi hiểu điều này, bởi vì chúng tôi đã nhìn thấy sự tiến bộ mà
các bạn làm được trong thập niên vừa qua. Chúng thấy đã nhìn thấy tài
năng và sự thông minh của người Việt định cư tại Mỹ. Những người Mỹ gốc
Việt đã được bầu vào chức vụ những viên chức nhà nước, quan tòa, những
nhà lãnh đạo trong ngành khoa học, và trong kỹ nghệ cao kỹ (high-tech)
của chúng tôi. Năm ngoái, một người Mỹ gốc Việt thực hiện được một cú
đột phá về toán học, khám phá này đã làm cho những buổi hội thảo được
thu hình qua phương pháp video với chất lượng cao, trở nên dễ dàng hơn.
Và cả nước Mỹ đã để ý tới sự kiện: thủ khoa khóa tốt nghiệp Học Viện Sĩ
Quan Không Quân Hoa Kỳ, là Hoàng Như Trần.
Những người Mỹ gốc Việt ngày càng mở mày mở mặt, không phải chỉ do
những khả năng độc đáo, những giá trị tốt đẹp của họ, mà còn do họ có
được cơ hội để đẩy những khả năng, những giá trị của họ, tới mức cao
nhất của chúng. Cũng vậy thôi, với các bạn ở Việt Nam: một khi những cơ
hội của các bạn cứ thế mà tăng, tôi muốn nói những cơ hội để sống, để
học, để biểu tỏ sáng tạo, như vậy sẽ chẳng có cách chi làm cho người
Việt Nam dậm chân tại chỗ. Và tôi hoàn toàn vững tâm ở điều này: rằng
người Mỹ sẽ luôn luôn sát cánh với các bạn. Bởi vì trong một thế giới
mà mọi người thích dựa vào nhau, làm sao không có nỗi vui của chúng
tôi, trong sự thành công của các bạn?
Gần như 200 năm đã qua, ngay đầu mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam,
hai nước đã nhiều lần toan tính để có được một thương ước, giống như
thoả ước mà chúng ta ký bây giờ. Nhưng 200 năm thất bại, chẳng đi đến
một thoả ước. Hãy lắng nghe, một sử gia nói, chuyện cách đây 200 năm,
và hãy suy nghĩ, biết bao lần, chuyện cũ có thể được nhắc lại, suốt hai
thế kỷ; nhà sử học đã nói như thế này: “Những cố gắng đã thất bại bởi
vì hai nền văn hóa cách biệt không tìm ra được điểm gặp gỡ (tạm dịch
cụm từ: these efforts failed because two distant cultures were talking
past each other), và sự quan trọng ‘cho nhau, vì nhau’, giữa đôi bên
chưa đủ để vượt qua khỏi những rào cản.”
Hãy cho qua đi những ngày đã qua. Hãy cùng nhau nhận ra sự quan trọng
“cho nhau vì nhau” của chúng ta. Hãy tiếp tục giúp đỡ lẫn nhau, trong
việc hàn gắn vết thương chiến tranh, không phải bằng cách quên đi sự
can trường được bầy tỏ, hay nỗi bi thương mà ba bề bốn bên cùng gánh
chịu, nhưng bằng cách ôm lấy tình hoà giải, và sự can đảm xây dựng một
ngày mai tốt đẹp hơn cho con em chúng ta.
Cầu mong con em chúng ta học được từ chúng ta một điều: rằng những con
người tốt, qua trân trọng đối thoại, có thể khám phá ra, và tái khám
phá ra tình nhân loại chung, rằng quá khứ đau thật đau có thể là nguồn
cứu chuộc, trong một tương lai hoà bình và thịnh vượng.
Cám ơn các bạn đã đón tiếp tôi, gia đình tôi, và phái đoàn Hoa Kỳ tới
thăm Việt Nam. Cám ơn các bạn, về niềm tin vào tương lai. Chuc cac ban
suc khoe va thanh cong.
Cám ơn các bạn rất nhiều.
Clinton
onVietnam
For Immediate Release November 17, 2000
REMARKS BY PRESIDENT Clinton
TO VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY - HANOI
3:50 P.M. (L)
THE PRESIDENT: Thank you very much, and good
afternoon. I can think of no more fitting place to begin my visit at
this hopeful moment in our common history than here at Hanoi National
University. I was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say
it. If I mess it up, feel free to laugh at me. Xin chao cac ban.*
(Applause.)
So much of the
promise of this youthful nation is embodied with you. I learned that
you have exchanges here with students from nearly 100 universities,
from Canada to France to Korea -- and that you are now hosting more
than a dozen full-time students from your partner school in the United
States, the University of California.
I salute your
vigorous efforts to engage the world. Of course, like students
everywhere, I know you have things to think about other than your
studies. For example, in September, you had to study for your classes
and watch the Olympic accomplishments of Tran Hieu Ngan in Sydney. And
this week you have to study and cheer Le Huynh Duc and Nguyen Hong Son
in Bangkok at the football matches. (Applause.)
I am honored
to be the first American President to see Hanoi, and to visit this
university. But I do so conscious that the histories of our two nations
are deeply intertwined in ways that are both a source of pain for
generations that came before, and a source of promise for generations
yet to come.
* Hello, everybody.
Two centuries
ago, during the early days of the United States, we reached across the
seas for partners in trade and one of the first nations we encountered
was Vietnam. In fact, one of our founding fathers, Thomas Jefferson,
tried to obtain rice seed from Vietnam to grow on his farm in Virginia
200 years ago. By the time World War II arrived, the United States had
become a significant consumer of export from Vietnam. In 1945, at the
moment of your country's birth, the words of Thomas Jefferson were
chosen to be echoed in your own Declaration of Independence: "All men
are created equal. The Creator has given us certain inviolable rights
-- the right to life, the right to be free, the right to achieve
happiness."
Of course, all
of this common history, 200 years of it, has been obscured in the last
few decades by the conflict we call the Vietnam War and you call the
American War. You may know that in Washington, D.C., on our National
Mall, there is a stark black granite wall engraved with the name of
every single American who died in Vietnam. At this solemn memorial,
some American veterans also refer to the "other side of the wall," the
staggering sacrifice of the Vietnamese people on both sides of that
conflict -- more than
three million brave soldiers and civilians.
This shared
suffering has given our countries a relationship unlike any other.
Because of the conflict, America is now home to one million Americans
of Vietnamese ancestry. Because of the conflict, three million
Americans veterans served in Vietnam, as did many journalists, embassy
personnel, aid workers and others who are forever connected to your
country.
Almost 20
years ago now, a group of American servicemen took the first step to
reestablish contacts between the United States and Vietnam. They
traveled back to Vietnam for the first time since the war, and as they
walked through the streets of Hanoi, they were approached by Vietnamese
citizens who had heard of their visit: Are you the American soldiers,
they asked? Not sure what to expect, our veterans answered, yes, we
are. And to their immense relief, their hosts simply said, welcome to
Vietnam.
More veterans
followed, including distinguished American veterans and heroes who
serve now in the United States Congress: Senator John McCain, Senator
Bob Kerrey, Senator Chuck Robb, and Senator John Kerry from
Massachusetts, who is here with me today, along with a number of
representatives from our Congress, some of whom are veterans of the
Vietnam conflict.
When they came
here, they were determined to honor those who fought without refighting
the battles; to remember our history, but not to perpetuate it; to give
young people like you in both our countries the chance to live in your
tomorrows, not in our yesterdays. As Ambassador Pete Peterson has said
so eloquently, "We cannot change the past. What we can change is the
future."
Our new relationship gained strength as
American veterans launched nonprofit organizations to work on behalf of
the Vietnamese people, such as providing devices to people with war
injuries to help them lead more normal lives. Vietnam's willingness to
help us return the remains of our fallen servicemen to their families
has been the biggest boost to improve ties. And there are many
Americans here who have worked in that endeavor for many years now,
including our Secretary of Veterans Affairs, Hershel Gober.
The desire to
be reunited with a lost family member is something we all understand.
It touches the hearts of Americans to know that every Sunday in Vietnam
one of your most-watched television shows features families seeking
viewers' help in finding loved ones they lost in the war so long ago
now.
And we are
grateful for the Vietnamese villagers who have helped us to find our
missing and, therefore, to give their families the peace of mind that
comes with knowing what actually happened to their loved ones.
No two nations
have ever before done the things we are doing together to find the
missing from the Vietnam conflict. Teams of Americans and Vietnamese
work together, sometimes in tight and dangerous places. The Vietnamese
government has offered us access to files and government information to
assist our search. And, in turn, we have been able to give Vietnam
almost 400,000 pages of documents that could assist in your search. On
this trip, I have brought with me another 350,000 pages of documents
that I hope will help Vietnamese families find out what happened to
their missing loved ones.
Today, I was
honored to present these to your President, Tran Duc Luong. And I told
him before the year is over, America will provide another million pages
of documents. We will continue to offer our help and to ask for your
help as we both honor our commitment to do whatever we can for as long
as it takes to achieve the fullest possible accounting of our loved
ones.
Your
cooperation in that mission over these last eight years has made it
possible for America to support international lending to Vietnam, to
resume trade between our countries, to establish formal diplomatic
relations and, this year, to sign a pivotal trade agreement.
Finally,
America is coming to see Vietnam as your people have asked for years --
as a country, not a war. A country with the highest literacy rate in
Southeast Asia; a country whose young people just won three Gold Medals
at the International Math Olympiad in Seoul; a country of gifted,
hardworking entrepreneurs emerging from years of conflict and
uncertainty to shape a bright future.
Today, the
United States and Vietnam open a new chapter in our relationship, at a
time when people all across the world trade more, travel more, know
more about and talk more with each other than ever before. Even as
people take pride in their national independence, we know we are
becoming more and more interdependent. The movement of people, money
and ideas across borders, frankly, breeds suspicion among many good
people in every country. They are worried about globalization because
of its unsettling and unpredictable consequences.
Yet,
globalization is not something we can hold off or turn off. It is the
economic equivalent of a force of nature -- like wind or water. We can
harness wind to fill a sail. We can use water to generate energy. We
can work hard to protect people and property from storms and floods.
But there is no point in denying the existence of wind or water, or
trying to make them go away. The same is true for globalization. We can
work to maximize its benefits and minimize its risks, but we cannot
ignore it -- and it is not going away.
In the last
decade, as the volume of world trade has doubled, investment flows from
wealthy nations to developing ones have increased by six times, from
$25 billion in 1990 to more than $150 billion in 1998. Nations that
have opened their economies to the international trading system have
grown at least twice as fast as nations with closed economies. Your
next job may well depend on foreign trade and investment. Come to think
of it, since I have to leave office in about eight weeks, my next job
may depend on foreign trade and investment.
Over the last
15 years, Vietnam launched its policy of Doi Moi, joined APEC and
ASEAN, normalized relations with the European Union and the United
States, and disbanded collective farming, freeing farmers to grow what
they want and earn the fruits of their own labor. The results were
impressive proof of the power of your markets and the abilities of your
people. You not only conquered malnutrition, you became the world's
second largest exporter of rice and achieved stronger overall economic
growth.
Of course, in
recent years the rate of growth has slowed and foreign investment has
declined here, showing that any attempt to remain isolated from the
risks of a global economy also guarantees isolation from its rewards,
as well.
General
Secretary Le Kha Phieu said this summer, and I quote, "We have yet to
achieve the level of development commensurate with the possibilities of
our country. And there is only one way to further open up the economy."
So this summer, in what I believe will be seen as a pivotal step toward
your future prosperity, Vietnam joined the United States in signing an
historic bilateral trade agreement, building a foundation for Vietnam's
entry eventually into the World Trade Organization.
Under the
agreement, Vietnam will grant to its citizens, and over time to
citizens of other countries, rights to import, export and distribute
goods, giving the Vietnamese people expanding rights to determine their
own economic destiny. Vietnam has agreed it will subject important
decisions to the rule of law and the international trading system,
increase the flow of information to its people, and accelerate the rise
of a free economy and the private sector.
Of course,
this will be good for Vietnam's foreign partners, like the United
States. But it will be even better for Vietnam's own entrepreneurs, who
are working hard to build businesses of their own. Under this
agreement, Vietnam could be earning, according to the World Bank,
another $1.5 billion each and every year from exports alone.
Both our
nations were born with a Declaration of Independence. This trade
agreement is a form of declaration of interdependence, a clear,
unequivocal statement that prosperity in the 21st century depends upon
a nation's economic engagement in the rest of the world.
This new
openness is a great opportunity for you. But it does not guarantee
success. What else should be done? Vietnam is such a young country,
with 60 percent of your population under the age of 30, and 1.4 million
new people entering your work force every year. Your leaders realize
that government and state-owned businesses cannot generate 1.4 million
new jobs every year. They know that the industries driving the global
economy today -- computers, telecommunications, biotechnology -- these
are all based on knowledge. That is why economies all over the world
grow faster when young people stay in school longer, when women have
the same educational opportunities that men have, when young people
like you have every opportunity to explore new ideas and then to turn
those ideas into your own business opportunities.
You can be --
indeed, those of you in this hall today must be -- the engine of
Vietnam's future prosperity. As President Tran Duc Luong has said, the
internal strength of the country is the intellect and capacity of its
people.
The United
States has great respect for your intellect and capacity. One of our
government's largest educational exchange programs is with Vietnam. And
we want to do more. Senator Kerry is right there, and I mentioned him
earlier -- is leading an effort in our United States Congress, along
with Senator John McCain and other veterans of the conflict here, to
establish a new Vietnam Education Foundation. Once enacted, the
foundation would support 100 fellowships every year, either here or in
the United States, for people to study or teach science, math,
technology and medicine.
We're ready to
put more funding in our exchange programs now so this effort can get
underway immediately. I hope some of you in this room will have a
chance to take part. And I want to thank Senator Kerry for this great
idea. Thank you, sir, for what you have done. (Applause.)
Let me say, as
important as knowledge is, the benefits of knowledge are necessarily
limited by undue restrictions on its use. We Americans believe the
freedom to explore, to travel, to think, to speak, to shape decisions
that affect our lives enrich the lives of individuals and nations in
ways that go far beyond economics.
Now, America's
record is not perfect in this area. After all, it took us almost a
century to banish slavery. It took us even longer to give women the
right to vote. And we are still seeking to live up to the more perfect
union of our founders' dreams and the words of our Declaration of
Independence and Constitution. But along the way over these 226 years
-- 224 years -- we've learned some lessons. For example, we have seen
that economies work better where newspapers are free to expose
corruption, and independent courts can ensure that contracts are
honored, that competition is robust and fair, that public officials
honor the rule of law.
In our
experience, guaranteeing the right to religious worship and the right
to political dissent does not threaten the stability of a society.
Instead, it builds people's confidence in the fairness of our
institutions, and enables us to take it when a decision goes in a way
we don't agree with. All this makes our country stronger in good times
and bad. In our experience, young people are much more likely to have
confidence in their future if they have a say in shaping it, in
choosing their governmental leaders and having a government that is
accountable to those it serves.
Now, let me
say emphatically, we do not seek to impose these ideals, nor could we.
Vietnam is an ancient and enduring country. You have proved to the
world that you will make your own decisions. Only you can decide, for
example, if you will continue to share Vietnam's talents and ideas with
the world; if you will continue to open Vietnam so that you can enrich
it with the insights of others. Only you can decide if you will
continue to open your markets, open your society and strengthen the
rule of law. Only you can decide how to weave individual liberties and
human rights into the rich and strong fabric of Vietnamese national
identity.
Your future
should be in your hands, the hands of the Vietnam people. But your
future is important to the rest of us, as well. For as Vietnam
succeeds, it will benefit this region and your trading partners and
your friends throughout the world.
We are eager
to increase our cooperation with you across the board. We want to
continue our work to clear land mines and unexploded ordnance. We want
to strengthen our common efforts to protect the environment by phasing
out leaded gasoline in Vietnam, maintaining a clean water supply,
saving coral reefs and tropical forests. We want to bolster our efforts
on disaster relief and prevention, including our efforts to help those
suffering from the floods in the Mekong Delta. Yesterday, we presented
to your government satellite imagery from our Global Disaster
Information Network – images that show in great detail the latest flood
levels on the Delta that can help Vietnam to rebuild.
We want to
accelerate our cooperation in science, cooperation focused this month
on our meeting in Singapore to study together the health and ecological
effects of dioxin on the people of Vietnam and the Americans who were
in Vietnam; and cooperation that we are advancing further with the
Science and Technology Agreement our two countries signed just today.
We want to be
your ally in the fight against killer diseases like AIDS, tuberculosis
and malaria. I am glad to announce that we will nearly double our
support of Vietnam's efforts to contain the AIDS crisis through
education, prevention, care and treatment. We want to work with you to
make Vietnam a safer place by giving you help to reduce preventable
injuries -- on the streets, at home and in the workplace. We want to
work with you to make the most of this trade agreement, by providing
technical assistance to assure its full and smooth implementation, in
finding ways to encourage greater United States investment in your
country.
We are, in
short, eager to build our partnership with Vietnam. We believe it's
good for both our nations. We believe the Vietnamese people have the
talent to succeed in this new global age as they have in the past.
We know it
because we've seen the progress you have made in this last decade. We
have seen the talent and ingenuity of the Vietnamese who have come to
settle in America. Vietnamese-Americans have become elected officials,
judges, leaders in science and in our high-tech industry. Last year, a
Vietnamese-American achieved a mathematical breakthrough that will make
it easier to conduct high-quality video-conferencing. And all America
took notice when Hoang Nhu Tran graduated number one in his class at
the United States Air Force Academy.
Vietnamese-Americans
have flourished not just because of their unique abilities and their
good values, but also because they have had the opportunity to make the
most of their abilities and their values. As your opportunities grow to
live, to learn, to express your creativity, there will be no stopping
the people of Vietnam. And you will find, I am certain, that the
American people will be by your side. For in this interdependent world,
we truly do have a stake in your success.
Almost 200
years ago, at the beginning of the relations between the United States
and Vietnam, our two nations made many attempts to negotiate a treaty
of commerce, sort of like the trade agreement that we signed today. But
200 years ago, they all failed, and no treaty was concluded. Listen to
what one historian said about what happened 200 years ago, and think
how many times it could have been said in the two centuries since. He
said, "These efforts failed because two distant cultures were talking
past each other, and the importance of each to the other was
insufficient to overcome these barriers."
Let the days
when we talk past each other be gone for good. Let us acknowledge our
importance to one another. Let us continue to help each other heal the
wounds of war, not by forgetting the bravery shown and the tragedy
suffered by all sides, but by embracing the spirit of reconciliation
and the courage to build better tomorrows for our children.
May our
children learn from us that good people, through respectful dialogue,
can discover and rediscover their common humanity, and that a painful,
painful past can be redeemed in a peaceful and prosperous future.
Thank you for
welcoming me and my family and our American delegation to Vietnam.
Thank you for your faith in the future. Chuc cac ban suc khoe va thanh
cong.*
Thank you very much.
END 4:17 P.M. (L)
* May you have health and success.
- Hỏi nát lương tâm hề, nhân loại…
-
Tin Văn: Hỏi nát lương tâm hề, nhân loại…
Jennifer Tran
Mỗi lần lịch sử sang trang, nó bỗng tối sầm lại, giống như cảnh trời
đất lúc sắp sửa bắt đầu một ngày. Bởi vậy, nhân loại vẫn muốn nhìn
ngoái lại những đau thương của một thời, bằng tiếng cười, trước khi
bước vào thời sắp tới. Khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ở Miền Nam chấm dứt,
người dân Việt đã từ giã nó, không phải bằng cái chết đau thương của
ông Diệm, ông Nhu, mà bằng nụ cười “hóm hỉnh” trước cái trò mạt cưa
mướp đắng, kẻ cắp bà già… của hai cú đảo chính Bravo 1, Bravo 2. Và khi
Miền Nam sắp sửa đi đoong, tổng thống Mỹ đang bận chơi golf, ký giả
hỏi, phát ngôn viên của Người đã tỉnh bơ trả lời: tổng thống không chơi
golf thì biết làm gì… bi giờ? Mới đây thôi, khi xẩy ra thảm kịch Kursk,
ngài tổng thống Nga đang bận nghỉ xả hơi tại một bãi biển (hình như
vậy). Nhưng cái chết âm thầm của trên trăm thuỷ thủ đoàn đã gây nhức
nhối, làm bật lên những câu thơ, những bài viết, ở một số nhà thơ, nhà
văn… Jennifer xin ghi lại ở đây, một bài thơ bằng tiếng Anh, của tác
giả Ian Bui, và sau đó, là hai bài dịch, một của chính tác giả, và một
của bạn của ông, đăng trên tuần báo VHNT trên lưới do nhóm Ô Thước chủ
trương, và do Phạm Chi Lan chủ biên.
Bài thơ dịch của chính tác giả đã gây nên một cuộc “tranh luận nho
nhỏ”, chung quanh một ý thơ.
Và sau hết, là trích đoạn bài viết của ký giả Mỹ, David Remnick, trên
tờ The New Yorker, số Sept 11, 2000
1. Kursk!
From once a fabled battleground,
your name now lives in tragic infamy!
One hundred plus eighteen, drowned
one hundred metres under the sea.
Their gasping cries, though never heard,
would not deny their bravery
in that enclosed, eutrophic hearse
their last moments before release.
Let there be war-if that's man's end,
unfathomed shall our anguish be
knowing each one had died in vain,
but to protect whose secrecies?
We the living have no answers
to give (nor lame apologies
for what was our moral failure
to rise above old tendencies)
Mothers and sisters, lovers and wives
their pain is graver than that sea
which stole these swift but fated lives
when its dark crypt had them buried.
Fare thee well, men and sons of Kursk,
your battle's donẹ Done are your days.
One hundred plus eighteen, cursed
one hundred metres beneath the waves.
Ianbui
Kursk!
Chiến địa lưu danh! Kursk huyền thoaÏi
trầm trong bể nhục kể từ đây:
Một trăm mười tám người nằm xuống.
Một trăm thước nước, vực trần ai!
Những tiếng gào vang trong tuyệt voÏng.
Biển dang tay đón cỗ quan tài
như chiếc nôi, đưa người cảm tử
lên đài vĩnh quyết phút xuôi tay.
Thế chiến sang trang hề, ta đứng
ngậm ngùi xem thế kỷ đầu thai.
Những trái tim không người bảo chứng
sống vì ai? Chết bởi vì ai?
Hãy hỏi đời sau, và sau nữa,
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai,
Hỏi nát lương tâm hề nhân loaÏi:
Còn giá nào hơn để trả đây?
Hỏi chị, hỏi em vàn yêu dấu,
Hỏi mẹ già nua, bé thơ ngây.
Niềm đau không đáy trời soi thấu
Là đêm biển lạnh kẻ vùi thây.
Vĩnh biệt anh, đàn con của Kursk!
Địa chiến mang tên. Chứng tích này:
Một trăm mười tám người thiên cổ.
Một trăm thước nước, mộ vừa xây.
Ianbui
(tác giả dịch sang Việt ngữ)
Kursk!
Huyền thoaÏi xưa,
bi kịch bây giờ ...
Một trăm mười tám người,
đại dương mênh mông ...
Những tiếng khóc tắt nghẹn, chẳng tạo nổi âm vang Nhưng vinh quang vẫn
còn trong chiếc tầu ma đóng kín phút sau cùng ...
Chiến tranh ơi ... thà đây là điÏnh mệnh !!! Còn hơn những khổ đau
không đáy của cái chết vô danh bảo vệ cho một bí mật nào?
Người sống không trả lời, không ân hận, cho một đạo đức điêu tàn ... Đã
quen cúi đầu theo thói cũ !!!
Hỡi những người đàn bà tang chế nỗi đau có đầy hơn nước biển đã cướp đi
maÏng người Trùng dương tối âm thầm chôn xác ai ...
Vĩnh biệt thôi, những đứa con của Kursk chiến trường xưa đã tàn ...
trăm lẻ mười tám người,
một định mệnh, đại dương mênh mông ...
(Phạm Thiên Mạc chuyển ngữ)
2. Thư thân hữu VHNT: Hỏi nát lương tâm hề nhân loại…
Đã lâu rồi, trên một số báo VHNT, tôi được đọc một
bài thơ. Cao ngạo, đầy chất nam nhi trượng phu! Nhưng bút hiệu cho
thấy, đây là một nữ sĩ. Hỏi qua email: how to explain it?
Mấy bữa sau, đọc một truyện ngắn, của cùng tác giả. Nhân vật nữ ở trong
truyện, khi được chồng hỏi, khi sắp sửa ra phố, tại sao em không mặc áo
dài? Người vợ đáp (tôi nhớ đại khái): em mặc, nhưng thấy cũng không làm
giảm được cái dáng vẻ cứng cỏi của em…
Một cách trả lời thật kín đáo. Thật VHNT!
Mới đây, đọc bài thơ của Ian Bui, dịch bài Kursk,
trong có đoạn:
Hãy hỏi đời sau, và sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây?
Tôi mê ba câu đầu quá! Thật cao ngạo ngất trời!
Nhưng câu thứ tư, tôi thấy không chở nổi ba câu trên (giá nào thì cũng
thua thôi!). Cứ tưởng tượng hỏi tác giả, có thể ông sẽ trả lời: sao,
ông chê thơ tôi hả? Vậy thử thay bằng một câu khác, coi được không?
Tôi liều lĩnh thay bằng câu:
Hãy hỏi đời sau, đời sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại,
Lạnh lẽo nào hơn huyệt mộ này?
Đinh Hùng hình như có câu:
Nằm trong huyệt lạnh chắc em sầu?
Bài thơ đề tặng Liêu Trai của Vương Ngư Dương (?) mà
Vũ Hoàng Chương dịch, tôi nhớ đại khái:
Chuyện đời chán ngấy người lên được,
Nghe quỉ trong mồ… xướng thi
Liệu có phải Kursk cũng là một “chuyện đời chán ngấy
người lên được”? Biết đâu bài thơ của Ian Bui, là mở đầu cho những dòng
thơ, từ trong mồ… Kursk ngàn đời sau vọng lên?
(Một thân hữu VHNT)
Chú thích: Sự thực tôi có hỏi, ông trả lời, thật lịch sự:
“… thật ra ý tôi trong đoạn đó rất đơn giản…. Cũng có thể câu đó là
điểm yếu trong toàn bài, hơi bấp bênh, không chắc như những câu khác.
Chỉ sợ nếu sửa câu thơ một tí mà làm sai ý của nguyên bài thì hỏng. Quả
thực là việc nguy nan…”
Ôi chao, thật nguy nan, cái việc sửa thơ, và thật vô cùng nguy nan, cái
việc sửa thơ của người khác!
3. Phong Hỏa Đài
Đời xưa, một ông vua vì muốn mua một tiếng cười của Người Đẹp, đã ra
lệnh nổi lửa trên Phong Hoả Đài. Chư hầu thấy hiệu lửa cầu cứu, vội
vàng kéo quân tới. Nhìn thấy những đoàn quân ùn ùn tới, rồi tẽn tò lui,
Người Đẹp quả nhiên bật cười.
Không hiểu ký giả người Mỹ, David Remnick có biết tới nụ cười La
Joconde đã biệt tích theo hạc vàng của Đông Phương hay không, nhưng
trong bài viết về thảm kịch Kursk, ông đã liên hệ tới ngọn lửa cháy
trên tháp cao nhất của nước Nga, (và của Âu Châu?). Ông viết: Nước Nga
là một xứ sở lớn lao của… ẩn dụ (Russia is a great country for
metaphor), chính vì vậy mà tuần lễ vừa rồi, khi tháp truyền hình
Ostankino bốc cháy trên nền trời Moscow, người ta cố tìm cho được ý
nghĩa của nó. Liệu có thể coi đây là ngọn đuốc tưởng niệm những người
con của nước Nga, nằm dưới đáy sâu biển cả, trong nấm mồ lạnh lẽo là
tiềm thủy đỉnh nguyên tử Kursk? Hay đây là ngọn lửa bùng lên vào phút
cuối cùng, báo trước sự cáo chung của một chế độ? Hay đây là ngọn lửa
cho thấy cơn giận dữ của chính quyền, trong nỗ lực bóp nghẹt tự do báo
chí?
Jennifer Tran
- Entry for July 21, 2008
-
Đóng vai Bác Hồ!
Lâu
ngày không đến Nhà hát kịch Hà Nội, hôm nay đến chẳng gặp ai, chỉ gặp
mỗi Tiến Hợi.
Nó hỏi có vở mới không ông, mình nói không. Nó nói từ ngày tôi đóng vai
nhà thơ trong kịch Sám hối của ông, quay đi quay lại cả chục năm rồi.
Bao nhiêu lần ông có vở mới tôi chẳng có vai.
Mình nói đùa ông kinh doanh vai Bác Hồ đủ no rồi, cần gì vai khác. Nó
bảo hồi này có ma nào thuê tôi đóng đâu. Mớí sực nhớ sau bộ phim Hà Nội
mùa Đông năm 1946 của Đặng Nhật Minh, đúng là không ai thuê Tiến Hợi
đóng vai Bác Hồ nữa thật.
Chẳng phải nó không còn giống nữa, hay thủ vai kém, mà tự nhiên thế, cả
kịch lẫn phim đều vắng bóng nhân vật Bác Hồ.
Ngày xưa thì nó nổi như cồn nhờ vai Bác Hồ. Nó trông ngoài giống y
chang Bác Hồ tại đại hội Tua, hoá trang thì Bác Hồ thời nào cũng giống.
Nó còn học được giọng Bác, nhiều khi nghe y chang, khiến nhiều người
xem rất cảm động.
*
Thằng Tùng cứt nói
mày làm Bác mà đéo biết còn hỏi tụi tao.
*
Làm Gấu nhớ đến Borges.
"Ai cũng thừa nhận kỳ lân là một linh vật mang
đến điềm lành, điều này đã được nói rõ trong mọi cuốn thơ ca, biên
niên, tiểu sử có minh họa, và nhiều bản viết khác mà uy tín của chúng
không cần bàn cãi. Ngay cả trẻ con và đàn bà nhà quê cũng biết kỳ lân
tạo điềm tốt. Nhưng con vật này lại không hề hiện diện giữa đám thú vật
nuôi quanh nhà, thật khó thấy, nó không để vướng mình vào bảng phân
loại. Nó không như con ngựa, con bò, con chó sói, hay con nai. Trong
những điều kiện như thế, chúng ta có thể đối mặt với kỳ lân, và không
biết một cách chắc chắn, con gì đây. Chúng ta biết, con vật như thế đó
có tên là con ngựa, con vật có những cái sừng như vậy là con bò. Nhưng
chúng ta không biết kỳ lân như thế nào."
Một người đàn ông
có, hoặc anh ta tin tưởng có, một người bạn nổi tiếng. Chẳng bao giờ
anh ta gặp bạn, sự thể là, cho tới nay, người bạn chưa từng giúp đỡ anh
ta, tuy bao câu chuyện đã được kể, về những nét quý phái, phong nhã số
một của người bạn, bao thư từ thực sự của người bạn chạy lòng vòng đâu
đó. Rồi có người tỏ ra nghi ngờ về những điều này, và những chuyên viên
khảo tự tuyên bố, những lá thư là bịa đặt. Người đàn ông, trong dòng
thơ chót, hỏi: "Và phải chăng, người bạn này là... Bác ?"
Tiền Thân Kafka
*
Bài
của NQL bảnh hơn của Borges nhiều!
Chất
"hiện thực xã hội chủ nghĩa", cộng chất "thần kỳ" của Borges, cộng chất
đểu cáng của Mít....
Thí dụ:
Nhưng
thói quen gọi tên nhân vật, buột miệng vô thức rất buồn cười. Nhiều khi
quên, anh Tạo còn kêu lên ôi chà chà xem cái thằng Bác diễn ngu chưa
kìa.
Nói
xong thì giật mình, sợ bằng chết. Đến khi say nghề quên hết, lại buột
miệng kêu lên Bác Hồ ơi, mày diễn cái đéo gì đấy.
Chết
cười.
*
Tuyệt!
*
(1).
Sự không thừa nhận những linh vật và cái chết có tính lăng nhục, hoặc
như là tai nạn, của chúng ở nơi tay con người, là những đề tài truyền
thống của văn chương Trung Hoa. Xin coi chương chót cuốn sách của Jung,
Tâm lý học và Thuật luyện kim, Psychologie und Alchemie (Zurich, 1944),
trong có hai minh họa ngồ ngộ.
Borges
trích dẫn.
Đọc
NQL viết về Bác, Gấu lại nhớ ông bạn thi sĩ mới gặp lại ở nơi xứ người.
Ông cho biết hiện nay, “đề tài” Bác đi vào văn học dân gian và không
còn là một cấm kỵ. Sau những "D.M. thằng BH", "Con ở [Ô
sin] Miền Nam ra thăm Lăng Bác", “Ôi chà chà coi cái thằng Bác diễn ngu
chưa kìa”, có vẻ như đây là cái “chết tự nhiên”của "kỳ lân" chăng?
Hồi ở nông trường
lao động cải tạo Đỗ Hải, Nhà Bè, Gấu sống sót bằng cách kể chuyện tiếu
lâm. Danh nổi như cồn. Hễ trại viên nào có thăm nuôi, là buổi tối hôm
đó, Gấu được mời làm khách danh dự.
*
Đọc
NQL viết về Bác, Gấu lại nhớ ông bạn thi sĩ mới gặp lại ở nơi xứ người.
Ông cho biết hiện nay, “đề tài” Bác đi vào văn học dân gian và không
còn là một cấm kỵ. Sau những "D.M. thằng BH", "Con ở [Ô
sin] Miền Nam ra thăm Lăng Bác", “Ôi chà chà coi cái thằng Bác diễn ngu
chưa kìa”, có vẻ như đây là cái “chết tự nhiên”của "kỳ lân" chăng?
Hồi ở nông trường
lao động cải tạo Đỗ Hải, Nhà Bè, Gấu sống sót bằng cách kể chuyện tiếu
lâm. Danh nổi như cồn. Hễ trại viên nào có thăm nuôi, là buổi tối hôm
đó, Gấu được mời làm khách danh dự.
*
Note: Bài trên đã được delete ở nguyên gốc.
Sorry, if any inconvenience!
NQT
*
Nguyễn quang
Lập (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng): Tôi muốn hỏi lại,
các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó thành ba mươi năm.
Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại, thì các
anh lại viết?
Trần Dần: Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi
vào phản-nhật-ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng
nghĩ lại, mình tuổi già đã hết cái máu ấy rồi. Sáu mươi ba tuổi, nếu
được hoạt động hai năm nữa cũng quý rồi, cố mà ra khỏi đó. Nhưng tôi
biết, phục hồi thì cũng vô thưởng vô phạt, chỉ là hình thức thôi. Sau
đó nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời được. Như thế quả là
hèn thực. Ðáng lẽ là một Silence de la mort. Ðó là cách trả lời mini
nhất.
(Tan cuộc, nhìn lại đã gần mười hai giờ khuya.)
Trần Dần (chống gậy khập khiễng ra cổng, lầu bầu): Lại mất ngủ!
Bến Ngự đêm 14-5-1988
*
NQL viết, là tiếp tục công việc của Trần Dần, như ý câu trên suy ra?
Nhưng cái vụ tự đục mấy bài, như bài về Bác, thì hơi bị yếu.
Lạ, là bị đục rồi, còn có người lôi từ đống rác Google ra, để tố!
*
Đóng vai Bác Hồ!
Còn nhớ đại hội nhà văn lần thứ IV, anh uống
đâu về, vào hội trường. Trên diễn đàn anh Mai Quốc Liên đang mắng mỏ
mấy ông nhà văn mà ông cho là phản động để bảo vệ Đảng.
Anh Liên nói rất hăng,
nhìn phong thái, lời ăn tiếng nói y hệt ông bộ trưởng, không phải thằng
đầu nậu sách.
NQL
Chép tặng NMG, người đã được MQL đầu nậu SCML!
Hà , hà!
*
Phong thái y hệt bộ trưởng mà lại hoá ra đầu nậu!
Đầu nậu trong nước ra đến hải ngoại!
*
"Cô T. muốn có
con với anh. Anh viết thư cho cô: anh hình dung con chúng mình sẽ...
ôi! con chúng mình sẽ... ôi! Đến khi cô T. có chửa, anh lết cả chục lần
xin cô bỏ cái thai đi"
"Cô T. bỏ cái
thai đi và coi anh là kẻ thù. Anh đập đầu khóc lóc rồi gạt nước mắt đi
vào hội thảo, đọc một bài tham luận về đổi mới văn chương. Ai cũng xót
xa về thực trạng văn học nước nhà, tất nhiên trừ cô T."
V/v: Sao cứ lải nhải
hoài vụ NQL_TNV?
Lên đến Bi Bì Xèo rồi!
NQT
Đoạn văn trên, sự thực không nói về cái thai, đứa bé không được ra đời,
mà nói về chế độ.
Nếu chỉ nói về cái thai, thì không nên lải nhải.
NQT
*
Than ôi, Bi Bi Xèo thì cũng "chạy" entry Bác Hồ!
Còn nhớ, lần Gấu post bài Viên Gạch Của Bác Hồ, chôm từ một diễn đàn
trong nước. Ngay lập tức nguyên gốc thiến liền bài viết. Hình như có
tới hai thành viên bị kỷ luật!
Bi Bi Xèo thì cũng Yankee mũi tẹt, sợ là phải rùi!
*
Cứ giả sử, nhân dân đều biết tỏng,
Bác ôm cục gạch ấm áp mềm mại trong tay mà đã phịa ra cục gạch sần sùi
gói trong tờ báo, liệu nhân dân có còn "giận thì giận nhưng thương thì
vẫn thương"?
Đây cũng là câu hỏi tờ TLS nêu ra khi điểm cuốn tiểu sử Koestler, liên
quan đến vấn đề đạo hạnh, đời tư của người viết.
Viên gạch của Bác
*
Lần ở nông trường cải
tạo Đỗ Hòa, (1) Nhà Bè, Gấu dám kể chuyện tiếu lâm về Bác, cho mấy anh
quản giáo nghe, nghe xong, tất cả đứng dậy, đi ra khỏi bàn nhậu, mặt
tay nào tay nấy lạnh như băng, Gấu than thầm hỏng rồi, xong rồi, vậy mà
sáng hôm sau, gặp mấy ảnh, họ làm như chẳng có chuyện gì xẩy ra, và sau
này Gấu cứ băn khoăn hoài, tại sao dám kể chuyện tếu về Bác, đến giờ
nghĩ lại vẫn còn rét?
Đó là khoảng thời gian 1981, 82 gì đó.
Gấu có quá nhiều kỷ niệm tù, đa phần kỷ niệm ly kỳ thế mới thú, về già
nhìn lại, quãng đời tù là quãng đời đẹp nhất của Gấu, thế mới nhảm.
Cứ tính viết ra, lại tiếc. Viết hết ra rồi, còn gì để mà ấp ủ để mà
nâng niu?
Gấu nghi, có thể tay NQL này, cũng y chang!
Những kỷ niệm về bướm, [Em ngồi giặt bướm giữa trưa /Rát bàn tay vẫn vò
chưa sạch lồn , mới đọc trên talawas, của Bùi Chát, tuyệt cú mèo!], khi
theo Cách Mạng, không dám mang phô ra, cứ ấp ủ, cưu mang trong l... bây
giờ hết còn tin tưởng CM nữa, bèn đem ra nhâm nhi, cũng thú!
(1) Đúng rồi. Nông trường Đỗ Hoà. Trước đây, Gấu nhớ lộn, thành Đỗ Hải
*
Bao giờ phong thái y hệt đầu nậu, mà hóa ra là bộ trưởng, thì dân Mít
mới khá được!
Đây là mô phỏng Picasso. Ông lấy cái yên xe, cái ghi đông
xe treo lên tường, thành cái đầu bò. Thiên hạ khen um lên, ông lắc đầu,
cái thằng lôi cái đầu bò xuống, biến nó thành cái xe đạp, mới ghê!
*
Câu chuyện tếu về
Bác, Gấu cứ nghĩ, mình phịa ra, đâu ngờ trùng hợp với một sự kiện xẩy
ra trong lịch sử Thổ nhĩ kỳ, thế mới quái, nhưng, lý do tại sao Gấu dám
kể, mãi đến khi về già, Gấu mới hiểu ra, nó liên quan đến chuỗi ngày
đói dài người, khi mới bị tống ra nông trường, bặt tin gia đình, trốn
trại, bị bắt lại, bị tống vô tổ trừng giới, và đến khi gia đình lên
thăm nuôi, chấm dứt chuỗi ngày đói khổ, nhờ tí tiền gia đình giấu trong
bị gạo, mua một chức tước nhỏ, hết còn phải đi lao động, tà tà “sống
sót” bằng nghề quay phim chưởng, kể chuyện tiếu lâm… ui chao sao mà nhớ
quãng đời êm đềm này đến thế, hả trời!
*
Sự
thực, NQL không biếm họa, mà cũng không vẽ chân dung nhà văn theo kiểu
Xuân Sách.
Ở một mức nào đó, có thể nói, ông vẽ chân dung chế độ, qua những con
người đại diện của nó. Một ông nhà văn, dụ khị cô bồ, vẽ ra tương lai
đứa con, như tương lai của chế độ, và khi cô có thai, bắt phải phá, và
trong khi cô phá thai, thì ông nhà văn đăng đàn nói về tương lai của
văn học. Một đấng thanh niên làm heo nọc, đêm đêm đi làm nhiệm vụ, thay
cho trai làng đã vô R...
Những chuyện như thế, không phải là biếm họa, theo như cách hiểu thông
thường về biếm họa.
Giữa biếm họa của Xuân Sách, và của NQL, cũng có khác biệt.
Với Xuân sách, chỉ có chân dung nhà văn. Với NQL, còn có chân dung của
những con người bình thường, như anh Đ, thí dụ. Với Xuân sách, chúng ta
còn nhận ra thông điệp, (điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn?) Với NQL, ông
đếch cần thông điệp. Hoặc, ông giấu kỹ thông điệp. Hoặc, người đọc quên
thông điệp, và chỉ đọc, và cười, có khi còn thèm được như anh Đ!
Đừng tin nhà văn. Hãy tin câu chuyện được nhà văn kể ra.
*
Anh viết như thế, đến tôi đây cũng còn thấy đau, nữa là ai.
[Một thi sĩ, ra đi từ miền bắc, nhận định về "cách cắt nghĩa" của Gấu,
về những hành động độc ác, thô bỉ, của nhân vật Nguyễn Huệ, của NHT]
Milosz từng nói tới sự độc ác của cõi văn Ba Lan. Trong cuốn Milosz's
ABC's, dưới đầu vào "Sự độc ác" [Cruelty, bản tiếng Anh, do Madeline G.
Levine dịch từ tiếng Ba Lan], ông viết:
Có thể cái trò đùa đểu, thâm, độc, tàn nhẫn, trò khôi hài đen... là nét
đặc biệt của tầng lớp trí thức Ba Lan trong thế kỷ này. Và thường được
giải thích, đây là do "tai nạn của lịch sử" giáng lên phần đất này, của
Âu Châu.
Liệu có thể "mượn" ý của ông để giải thích những tác
phẩm, thí dụ như Sổ Ghi, của Trần Dần?
Cũng trong đoạn viết trên đây, ông kể về buổi trình diễn lần đầu, kịch
Trong Khi Chờ Godot, của nhà văn Nobel văn chương Samuel Beckett, tại
Paris; khán thính giả đã bật cười hô hố, khi "thưởng thức" cảnh Pozzo
hành hạ Lucky, là kẻ nô lệ, người hầu của anh ta; triết gia người Pháp
Lucien Goldmann, mà Milosz ngồi kế bên, đã hết sức phẫn nộ:
-Họ cười cái gì chứ? Những trại tù cải tạo, hử?
[What are they laughing? The concentration camps?]
Biển Nhớ
Cái chuyện tiếu lâm
về Bác, Gấu kể cho mấy anh quản giáo Đồ Hoà nghe, là vào thời gian Gấu
vừa thoát “khổ nạn trong khổ nạn”, ra khỏi tổ trừng giới, được trả về
đội, và được đi lao động, và do có tí tiền gia đình gửi cho, bèn mua
chức y sĩ đội, mỗi tối tà tà đi từng lán, ghi tên trại viên khai bịnh,
sáng hôm sau, sau khi chào cờ, đọc tên, dẫn qua khu bệnh xá.
Nhờ lần thăm nuôi đầu tiên, nhờ tiền gia đình gửi cho, cuộc đời tù của
Gấu đổi hẳn. Buổi tối, Gấu thường la cà mấy lán, dự tiệc trà, thường là
do mấy trại viên ban ngày có gia đình thăm nuôi mời. Để đáp lại, Gấu
bèn trổ nghề kể chuyện tiếu lâm, quay phim chưởng. Danh tiếng vượt khỏi
đội, tới mấy đội khác, rồi tới tai mấy ảnh. Và được mấy ảnh mời, cho
ngồi nhậu chung, kể chuyện tiếu lâm.
Câu chuyện về Bác, có thể là còn đầy dư âm những ngày “tù trong tù”,
tức những ngày ở tổ trừng giới. Thế là bèn xổ ra, cứ nhè Bác mà thọi!
Vì Bác mà nên nông nỗi này!
So với câu chuyện về Bác, của NQL, cùng một một dòng, "hậu quả của hậu
quả”, nhưng chuyện của Gấu, thì quá thường, so với của NQL.
Nay xin kể ra đây, cho rảnh nợ!
Trước khi kể Gấu cũng xin rào đón, đừng có bắt tội thằng kể, và được
OK.
Theo như truyền kỳ, thưở đó, thuở đó, Miền Bắc có một đội banh vô địch,
đánh đâu thắng đó, và lần đó, qua Âu Châu dự World Cup, mang được Cup
về cho xứ Mít. Trong bữa tiệc chia tay, ông bầu, bị đám báo chí phục
rượu, xỉn quá, bèn phụt ra bí quyết:
-Mỗi khi ra trận, tui kêu cả đám cầu thủ tới, dặn một câu... thế là tụi
nó đá như điên.
-Câu gì mà ghê thế ?
-Thì biểu tụi nó, tưởng tượng trái banh là đầu Lê Nin, chứ gì nữa!
*
Bảnh nhất, là mấy anh quản giáo Đỗ Hoà.
Tha cho anh già!
*
Chuyện của NQL, Đóng vai Bác Hồ! (1), theo Gấu, phải những tay mê viết văn, mê
tạo ra những nhân vật, tức những mặt nạ, những thế thân... đọc, mới
sướng. Bí quyết của nó, là nằm trong giai thoại Trang Tử nằm ngủ hóa
Bướm, tỉnh dậy, không biết Bướm là Trang Tử, hay Trang Tử là Bướm.
Về ba thứ này, Borges là bậc thầy!
Như là một độc giả, rồi, như là một tác giả.
(1) Bài viết này,
hân hạnh được "ta là gì" móc ra từ sọt rác Google, [trong khi Tin Văn
trang trọng bệ về, liền vừa khi xuất hiện trên blog NQL], và được ban
cho cái tít "Kinh doanh vai Bác Hồ".
Gấu
không nghĩ, đây là vấn đề kinh doanh.
Hiểu
như vậy, thì đúng là xứng đáng được tặng thưởng câu phán của chủ nhân
"ta là gì", dành cho bài viết của NVL, “thiếu
chất lượng và thiếu những tiêu chuẩn tối thiểu.”
*
Thiếu sự nhạy cảm!
Thiếu
sự thông cảm.
Thiếu
một tấm lòng nhân hậu.
Đó
là tổng quan sự nghiệp văn chương của bà chủ quán!
*
Chứng cớ:
Rũ bụi tao cũng đếch thèm làm quen!
Chỉ ngửi khói nhà hàng xóm cũng đủ no! (1)
....
Đúng
là thứ thiếu sự khiêm tốn!
Tẩu
hoả nhập ma vì cái [tôi] to tổ bố! NQT
(1) Câu trên, được một diễn đàn văn học lọc ra, coi là "ranh ngôn mỗi
ngày", kéo dài đâu mấy tháng, sau, có thể bà chủ quán cảm thấy nhột
quá, ra lệnh dẹp!
*
Sự
kiện NQL post rồi delete liền tù tì bài viết về Bác, thoạt đầu Gấu
nghĩ, có lẽ chàng rét, chàng lạnh cẳng! Nhưng không phải.
Mãi
Gấu mới ‘ngộ’ ra được, khi liên tưởng đến chuyện ông vua tai lừa.
NQL
biết, vua [có] tai lừa, bèn "phịa ra", tuy có thực, một tay đóng vai
"vua tai lừa", rồi phán, "mi có tai lừa", phán xong, delete liền!
Phịa ra, tuy có thực! Đây là điểm nhập nhằng ở NQL. TNV đã lên tiếng,
để đáp lễ bạn thân của ông.
Những nhà văn này công khai và vui vẻ
nhận rằng “thêm bớt cho sinh động thôi mà” khi viết bất
cứ chân dung nào. Công khai, vui vẻ “bịa cho vui thôi mà” nên một suýt
thành trăm, không nói thành có và thậm chí trắng biến thành đen. Họ
không có ác ý nhưng hậu quả là cực kỳ ác đối với gia đình và xã hội mà
“người bạn thân thiết” của họ đang sống. Bởi vì chuyện họ đem ra chế
biến, làm xiếc bằng chữ nghĩa và tài hài hước sẵn có, toàn là chuyện
liên quan tới phẩm chất và cuộc sống riêng tư của con người mà gần như
những chuyện họ dựng đứng đều có thể kiện ra toà án dân sự. Khi gặp
phản ứng thì họ cũng vui vẻ, chân thành nữa, nhận lỗi. Nhận lỗi nhiều
lần. Nhưng ngay sau đó lại tiếp tục bịa chuyện một cách ngon lành,
khiến người đọc ớ ra: a, cha ni hết khả năng trung thực rồi ư? Nếu quả
thật tài năng biến báo và hài hước của họ không đem ra thi thố thì quá
phí và quá ngứa ngáy trong người họ thì lẽ ra họ nên học dân Vĩnh Hoàng
và dân Gabravo tự trào mình. Nhưng việc đó thì họ không bao giờ làm. Họ
chỉ đùa cho vui trên đau buồn của người khác thôi.
*
Đôi điều tâm sự
Tử
khi tôi khởi sự viết blog, mục đích là ghi chép các mảnh vụn kí ức lấy
đó làm chất liệu cho những sáng tác sau này, hoặc là tập hợp lại thành
một cuốn gọi là " Những mảnh vụn kí ức". Những entry của tôi đều lấy ra
từ kí ức của tôi. Mà kí ức thì không thể gọi là bịa đặt. Chỉ có điều
những kí ức nào tự nó làm nên một chuyện có nghĩa thì tôi bê vào nguyên
xi, các kí ức đơn lẻ, nếu bê nguyên sẽ không có nghĩa gì cả, hoặc không
gây được một hứng thú nào, thì tôi buộc phải cố kết với các hồi ức đồng
dạng khác để làm 1 entry. Nhưng khi đó đáng lẽ tôi phải ghi là sáng tác
và chú thêm cả thể loại nhưng tôi đã không làm như vậy. Điều đó gây
hiểu lầm cho nhiều ngươi, một vài người có tên trong entry của tôi đã
giận dữ hoặc buồn nản.
Vì
những hệ lụy, phiền phức do những entry như vậy, kể từ đây blog của tôi
chỉ có 2 loại,một là những suy nghĩ của tôi về cuộc đời gọi là Nghĩ
ngợi linh tinh, hai là những câu chuyện được cố kết thành truyện ngắn.
Tất cả tên nhân vật đều do tôi đặt ra, chứ không còn mượn tên thật như
trước nữa, nếu chẳng may trùng tên ai đó thì chỉ là sự ngẫu nhiên.
Đôi
điều tâm sự như vậy, mong mọi người hiểu cho
Friday
July 25, 2008 - 09:23am
NQL
*
Trường
hợp này giống trường hợp NMG lấy mẹ nó tên T [HPNT] đem vô tác phẩm,
rồi phán, tôi hư cấu. Đúng ra, ngay từ khi viết, là NQL đã phải ý thức
được điều này.
TNV nói đúng. Ngay cả trường hợp đem vô để khen cũng không được!
Chỉ được, khi ghi, đây là hồi ký, tức, non-fiction.
*
Trên một tờ báo nước ngoài, có một bài viết thật thú vị, về chuyện này,
thật tốt cho cả TNV và NQL, và nó biện minh cho việc làm của NQL:
Ông phải phịa ra, để khỏi bị tiêu trầm, huỷ hoại, vì quá khứ! (1)
Gấu sẽ đi thêm về đề tài này, sau. NQT
(1) Đây là nghi lễ trừ tà của thế kỷ.
*
Đọc
NQL, có vẻ như ông rành về bướm hơi bị sớm.
Gấu
thua xa.
Phải
đến khi vô Nam, may mắn gặp đấng
bạn quí HPA, rồi cùng nhau làm trang VHNT cho tờ Mã Thượng, tới lần
lãnh tiền nhuận bút kỳ thứ nhì, Gấu mới viết mùi bướm.
Ui
chao, bướm nói, sao mà ngu thế, thế là nhớ đời, câu mắng yêu của em.
Phải
làm như thế này này.
Sau này đọc nhật ký
blog của một bướm Ăng lê, em viết, nghề của tôi, chỉ có mở hai đùi ra,
rồi khép lại, là nhớ liền đến bài học vỡ lòng ngày nào!
Nhớ luôn, một nhân vật của HHT, đang nằm giữa hai đùi em, đã khẩn
khoản, "Lát nữa, nữa nhé!"
Nhớ, cái em ngày nào mang về nhà, sáng tính làm thêm một cú chót, trước
khi trả hàng, em vừa ngái ngủ, vừa cởi giùm Gấu sợi dây quần, vừa càu
nhàu:
Nữa hả?
Nhớ luôn câu thơ của TTT:
Ôm em trong tay mà đã
nhớ em ngày sắp tới
*
Lần
thứ nhất, đi cùng DVB, HPA. Tụi nó cứ nghĩ là Gấu rành bướm rồi, lên
đến xóm là mỗi đứa chạy đi với một em, bỏ trơ Gấu ngồi ở phía bên
ngoài, và khi má mì hỏi, cậu đi không, lại tưởng má mì đuổi về, bèn lắc
đầu, tôi không đi!
Về
cái gọi là tính trung thực của một nhà văn
trong môi trường toàn trị, nó không đơn giản như sự hiểu biết của TNV.
Tình
cờ đọc lại một số NYRB, June 10, 2004, trong có bài viết “Sự thực về
nhà soạn nhạc lừng danh Shostakovich”, mới thấy, một nghệ sĩ có tài
thật khó sống trung thực, theo như cách nghĩ thông thường của chúng ta
về trung thực.
Như
rất nhiều người sống trong Liên Bang Xô Viết, Shostakovich phát triển
một kỹ thuật nói chuyện bộc lộ rất ít về cá nhân con người của chính
ông, với những người mà ông không tin cậy, hoặc tin cậy tí tí. Thành
thử khó mà lọc ra được từ những gì ông nói, hay viết cho công chúng,
những ý nghĩ riêng tư của ông. Rõ ràng là ông lúc nào cũng ý thức được
con mắt của nhân dân. Ngay cả những thư từ của ông viết cho bạn bè,
chứng tỏ, nếu có lọt vào con mắt của nhân dân, thì cũng vẫn OK như
thường:
Ông dùng một thứ ngôn ngữ tương tự như âm nhạc của ông, cứ một câu nịnh
nhà nước, thì có một câu nịnh ý thức của mình như là một nghệ sĩ, và
như là một công dân (… using one idiom to please his masters in the
Kremlin, another to please his own conscience as an artist and a
citizen).
Tuy nhiên, ẩn tàng ở bên dưới thứ ngôn ngữ, thứ âm thanh quen thuộc của
âm nhạc của ông, có một giọng mềm mại hơn, buồn bã hơn, chỉ có thể nghe
được với những người cùng chia sẻ những nỗi đau khổ mà âm nhạc của ông
diễn tả.
Từ
chỗ "Tuy nhiên...", là thuộc về sự trung thực của những con người thí
dụ như NQL.
Khi ông phải động đến những người bạn thân của ông, chính là vì cái sự
trung thực này, theo Gấu.
Lèo nhèo NQL
Children of a lesser god
A telling family
memoir impresses Simon Callow with its vivid evocations of life back in
the USSR
*
Nơi
Em về trời xanh không Em?
Họ Trịnh cay đắng hỏi
Em, mà hỏi chính mình.
*
Nơi Em về không biết Trời có xanh hay không xanh, nhưng Trời ở Liên Xô,
đối với trẻ con, không bằng Trời [a lesser God], ở các xứ khác!
“There were certain
rules of listening and talking that we children had to learn," one of
the witnesses, the daughter of a Bolshevik official in the Volga port
of Saratov,
told Figes. "What we overheard the adults say in a whisper, or what we
heard them say behind our backs, we knew we could not repeat ... No one
explained to us that what was spoken might be dangerous politically,
but somehow we understood."
Cuộc sống riêng tư dưới thời Staliin
"Có những luật lệ về
nghe và nói mà trẻ con phải học... Những gì nghe lén, thoáng nghe, nghe
nói sau lưng... là không thể lập lại..."
"Không ai nói cho chúng tôi biết, những lời nói đó thì rất nguy hiểm,
về mặt chính trị, nhưng bằng một cách nào đó, chúng tôi hiểu được"
*
Những
đứa trẻ Mít này, bây giờ đã lớn và đang nắm giữ vận mệnh dân Mít, ở xứ
Mít.
*
Gió
từ thời khuất mặt, sao cứ thổi mãi?
*
Những lời nói đó, và, bằng cách nào chúng tôi hiểu được, đứa trẻ ngày
nào, bây giờ trở thành nhà văn, nhớ lại, và viết.
The
final element of the book is as remarkable as any of this: Matthews's
report on the new Russia. This material, culminating on a Chechen
battlefield, brilliantly written though it is, seem extraneous to the
story, but it increasingly creates a resonance which contributes to the
complex picture of Russia he provides. Not least in the portrait of
newly capitalist Moscow "waxing fat on the plundered spoils of the
Empire", with its nightclubs where "dwarves in Santa costumes would
whip you with a cat-o'-nine tails as you walked up the stairs"; the
owner of one such establishment is glimpsed, "his face turned a
Mephistophelean green by the light of the cash register". There is a
dazzling vignette of a party at the Nobles' Assembly held in the former
Institute of Marxism and Leninism. The Russian army band plays mazurkas
and polkas (which none of the nobles can dance), while Prince Golitsyn,
in grey plastic shoes, chats to Count Lupakhin in a worn polyester suit
"as their heavily made-up wives fluttered plastic Souvenir of Venice
fans". Matthews himself, luckier than his parents, finds happiness in
the healing arms of his Russian wife, whose family has miraculously
bypassed the whole Soviet experience, and seems to contain an essence
of a Russia that preceded the turmoils and savage inflictions that he
so richly describes in his book.
- Nỗi buồn Istanbul
-
Nỗi buồn Istanbul
1
Nhìn thành phố qua mầu đen trắng của nó là nhìn
nó qua vẻ xám xịt, xỉn xìn xin của lịch sử: Vẻ gỉ sét của cái già khằn,
cái nhạt nhòa, chìm dần vào hư vô, vào quên lãng, và chẳng còn làm cho
phần còn lại của thế giới thắc mắc làm chi cho mệt. Ngay cả cái kiến
trúc Ottoman lớn lao nhất như thế rút cục đành tỏ ra khiêm tốn, thôi
thế thì thôi, trong cái vẻ u sầu, ủ ê tận cùng đế chế, dưới cái nhìn
chằm chằm ra vẻ khinh khi, coi thường của Âu Châu và sự nghèo đói từ
đời thuở nào cứ thế kéo dài giống như một căn bịnh vô phương cứu chữa.
Chính tình cảm nhẫn nhục, cũng đành đó, đã nuôi dưỡng phần “hồn lại
nhìn hồn” xót xa của Istanbul.
Muốn tóm được cái linh hồn đen trắng của thành
phố muốn ngắm nhìn thềm sương mù ngồi xổm lên trên nó, muốn thở ở trong
nỗi buồn mà những cư dân của nó ôm khư khư như số mệnh chung của họ,
bạn chỉ cần bay từ một thành phố Tây phương giầu có, và cứ nhắm những
con phố đông đúc mà hướng tới; nếu là mùa đông, bạn chỉ cần đi lên cầu
Galata Bridge, và sẽ thấy một lũ người cùng mặc một thứ quần áo nhợt
nhạt, buồn bã, giống như những bóng ma. Những người của Istanbul cùng
thời với tôi, họ rất ít khi xỏ vào người thứ quần áo sặc sỡ, mầu đỏ,
mầu vàng tươi, hay mầu xanh, mà những tổ tiên ngạo nghễ, tự hào của họ
đã từng mặc; với những du khách ngoại quốc, nếu mới tới, vừa nhìn thấy
họ lần đầu tiên, là sẽ nghĩ rằng, cái kiểu ăn mặc như thế, là để tỏ ra
cố gắng không muốn làm phiền ai, cố gắng tỏ ra họ là những con người
khiêm tốn giản dị, để được điểm đạo đức! Họ như muốn nói với du khách
người nước ngoài, vâng chúng tôi ăn mặc đen trắng như thế là để cùng u
sầu buồn bã với thành phố của chúng tôi, trong nỗi buồn đi xuống của
nó, ở cái thời điểm tận cùng của một đế chế kéo dài một trăm năm mươi
năm.
Và những du khách Tây Phương thế kỷ 19, từ
Lamartine tới Gérard de Nerval tới Mark Twain, tất cả đều phụ họa thêm
vào nỗi bi hài, ấy là vì họ miêu tả mấy chú chó lang thang trên những
đường phố Istanbul, với cùng một nỗi say mê và hào hứng như nhau, và
như thế, lại càng nuôi dưỡng thêm cho cái tình cảm đen trắng của tôi về
thành phố của mình. Khi quân đội làm một cú đảo chính, chẳng chóng thì
chầy, một ông tướng sẽ nhắc tới sự đe dọa của chó; nhà nước, nhà trường
thực thi không biết bao nhiêu là chiến dịch nhằm xoá sạch hình ảnh chó
trên đường phố, nhưng cứ như bắt cóc bỏ dĩa. Đáng sợ như là đáng sợ,
với những hàm răng nhe nhơn nhởn hướng về bạn, đoàn kết như là đoàn
kết, để chứng tỏ chúng coi thường, thách thức nhà nước. Làm sao mà tôi
không thương hại những con vật mất mát, điên khùng cố bám lấy linh hồn
chó Thổ từ thuở xa xưa của chúng?
2
Mỗi lần đọc Trăng trên vịnh Bosphorus là mỗi
lần tôi buồn lạ lùng, tiếc hùi hụi, giá như mình có mặt tại đó, nhập
vào những đam mê, nhập vào niềm im lặng ”thuyền mấy lá đông tây lặng
ngắt”, thay vì phải đọc qua một tác giả, rồi tôi sướng mê tơi khi nghĩ
đến chuyện, làm sao, bằng cách nào, nhà văn, bị nỗi hoài nhớ thúc bách
đến trở thành mù loà và cứ thế chìm xuống những dòng nước ngầm đen
thui, quỉ ma của cái thiên đàng đã mất của ông. Vào những đêm trăng,
khi những lá thuyền tụ lại ở một khoanh biển yên tĩnh, tiếng nhạc tắt
ngấm, vào lúc đó, ngay A.S. Hisar cũng cảm nhận ra điều này: “Những lúc
không một hơi gió, làn nước, đôi khi, như một cơn chuyển mình từ bên
trong, lao xao, khiến mặt nước óng ánh như mặt lụa.”
Ngồi trên thuyền cùng với bà mẹ, hình như đối
với tôi, những màu sắc trên những ngọn đồi Bosphorus không phản chiếu
thứ ánh sáng bên ngoài. Những cây judas và vạn niên thanh, những cánh
chim hải âu vỗ vùn vụt khi bay qua chúng tôi, những bờ tường kho chứa
ghe thuyền, lở chỉ còn chừng một nửa, tất cả như phản chiếu một thứ ánh
sáng mờ nhạt từ bên trong. Ngay cả vào những ngày nóng nực nhất, khi
những đứa trẻ con nhà nghèo nhẩy từ con đường nơi bến tầu xuống mặt
biển, mặt trời ở đây có vẻ như cũng không hoàn toàn làm chủ khí hậu và
phong cảnh. Và tôi thật mê, trong khi cố cắt nghĩa, cảnh tượng, vào lúc
ráng chiều mùa hè rớt xuống, cũng là lúc Bosphorus trộn bầu trời đỏ rực
vào với sự bí ẩn của riêng nó về bóng tối. Tôi mê mầu nước thay đổi khi
nó chuyển mình, như được bứt ra khỏi sự cầm giữ, và sủi bọt sùng sục,
càng trở nên hung hãn khi những con thuyền cắt ngang nó. Nhưng ngay ở
bên dưới mớ bọt biển kia, là phần biển mềm mại hơn, mầu sắc của nó
không thay đổi gì nhiều, nhấp nha nhấp nhô, giống như bể hoa súng trong
tranh Monet.
Vào giữa thập niên 1950, trong khi học tại
Robert Academy, tôi dành khá nhiều thì giờ, đứng giữa đám người đợi xe
buýt buổi sáng tại Besiktas-Sariyer, nhìn lên những ngọn đồi phía bờ
biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập chờn như một biển cả bí mật, thay
đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những buổi chiều xuân sương mù,
khi không một cọng lá nào ở trong thành phố rì rào lao xao, vào những
đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động, một người đàn ông lặng
lẽ bước một mình sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus, anh ta chỉ nghe
tiếng bước chân của chính mình, và khi anh ta vòng vòng ở khu Akinti
Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải đăng ở chân
nghĩa trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng gầm
thật hạnh phúc, thật đáng sợ và thật sung mãn của con nước, và gật gà
gật gù, những đợt khói sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi
nao, và tự hỏi, như Hisar đã từng, và tôi cũng đã từng tự hỏi, liệu
chăng Bosphorus có một linh hồn.
Tôi nói về mầu của những cây bách, của những
khu rừng âm u ở những nếp gấp của những thung lũng, của những yah hoang
phế, trống rỗng, bị con người bỏ bê, tôi nói về thơ ca của những con
tầu và những yali của Bophorus mà chỉ những ai đã từng tiêu hết, đốt
hết cuộc đời của họ ở hai bên bờ thì mới hiểu được, tôi nói về sự khám
phá ra niềm vui của cuộc sống trong những điêu tàn đổ nát của một nền
văn minh khi nó đã đạt tới một cung cách rất ư là đặc thù, của riêng
nó, tôi nói về sự ngần ngại, không làm sao quyết định, những đau khổ,
những niềm vui và những kinh nghiệm của điều mà người ta gọi là cuộc
đời, ở một nhà văn năm chục tuổi, và sự khát khao được sung sướng hạnh
phúc, và được vui thích như là một đứa trẻ con mà với nó, Lịch sử và
những văn hóa chẳng là cái thá gì, với niềm khao khát hiểu biết cuộc
đời bằng sự chân thành. Tuy nhiên, ngay khi tôi bắt đâu gợi ra vẻ đẹp
và thi ca Bosphorus, của những con phố âm u Istanbul, một giọng nói ở
trong tôi dè chừng, này, đừng có cường điệu những vẻ đẹp của thành phố
mà tôi sống ở đó, như thể, nó muốn tôi giấu diếm ngay cả với chính tôi
cái bất toàn không viên mãn của cuộc đời mà tôi sống, có lẽ sự thiếu
vắng cái đẹp ở trong chính cuộc đời của chính tôi là nông nỗi này: Nếu
tôi nhìn thành phố và thấy nó đẹp, nó hớp hồn, nó mê hoặc, thì cuộc đời
của tôi bắt buộc cũng phải như vậy. Rất nhiều nhà văn những thế hệ
trước tôi rớt vào thói hư tật xấu này, khi viết về Istanbul: ngay cả
khi họ suýt xoa, hít hà vẻ đẹp của thành phố, khiến tôi mê mẩn với
những câu chuyện của họ, rốt cuộc thì tôi cũng hiểu ra rằng thì là họ
đâu có còn sống ở nơi chốn mà họ miêu tả, và họ thèm đến rỏ nước miếng
những tiện nghi hiện đại của những đô thị Tây phương. Từ những đấng đàn
anh này, tôi hiểu ra rằng, một khi có kẻ ngợi ca vẻ đẹp của Istanbul,
điều đó có nghĩa, kẻ này đã tếch mẹ nó khỏi thành phố từ đời nảo đời
nào rồi, và không phải là không có tí mặc cảm tội lỗi: Với một nhà văn
suốt ngày lảm nhảm về những điêu tàn, về nỗi buồn của thành phố, của
Bosphorus, kẻ này chẳng hề có khi nào thắc mắc, về thứ ánh sáng ma quỉ
giáng xuống cuộc đời của chính anh ta, ui chao, ta đã làm chi nửa sau
đời ta? Để mà bắt kịp, với tới, hay xứng đáng, với những vẻ đẹp của
Bosphorus, là phải luôn luôn nhớ điều này: có một sự khác biệt rất lớn
lao, giữa cuộc đời dơ dáng, thảm hại, nhếch nhác, sa đọa của chính cá
nhân một con người, một cựu cư dân của thành phố, với những thành quả,
chiến thắng, những vẻ đẹp huy hoàng của quá khứ [của Sài Gòn].
3.
Gautier, nhà văn, ký giả, nhà thơ, nhà dịch
thuật, và tiểu thuyết gia, là bạn trung học của Nerval. Hai người trải
qua thời trai trẻ cùng với nhau, cả hai đều mê chủ nghĩa lãng mạn của
Victor Hugo, và có một dạo, họ ở rất cận kề với nhau, ở Paris, và chẳng
bao giờ có chuyện sứt mẻ. Một vài ngày trước khi tự tử, Nerval đi thăm
bạn, và khi Nerval tự treo mình lên một cái cột đèn đường, Gautier viết
một bài tưởng niệm cảm động, theo dòng “đi tìm một linh hồn”, về người
bạn đã mất của mình.
Hai năm trước, năm 1852, (chín năm sau chuyến
đi và đúng một trăm năm trước khi tôi ra đời), những biến động - sau
này khiến Nga xô đối nghịch với Anh, đem nước Pháp đến gần với Đế quốc
Ottoman, và mở ra Cuộc Chiến Crimean - lại một lần nữa khiến cho những
cuộc du hành về phương Đông trở nên thích thú đối với những độc giả
Pháp. Khi Nerval mơ tưởng một chuyến đi thứ nhì về phiá Đông, thì chính
là Gautier đã tới Istanbul. Nhờ tầu thuyền chạy bằng máy hơi nước ở Địa
Trung Hải khiến chuyến đi của ông xuất phát từ Paris chỉ còn mười một
ngày.
Gautier ở Istanbul bẩy mươi ngày. Ông viết về
chuyến đi, lúc đầu, là cho nhật báo, ông là tay chuyên viết fơi ơ tông,
[viết từng kỳ, liên tiếp cho một nhật báo], và sau đó, cho in thành
sách mà ông đặt tên là Constantinople. Cuốn sách quá phổ thông và được
dịch ra nhiều ngôn ngữ, và được coi là chuẩn mức cho những cuốn sách
viết về Istanbul vào thế kỷ 19 (cùng với cuốn Constantinopoli, của
Edmondo de Amici, được xuất bản tị Milan, ba
chục năm sau).
So với Nerval, Gautier tay nghề cao, sắp xếp
bảnh, và thông thoáng hơn. Chẳng có gì là lạ: Là một nhà chuyên môn
viết fơi ơ tông, một nhà phê bình, và một ký giả chuyên về nghệ thuật,
ông còn viết loại tiểu thuyết từng kỳ cho nhật báo (có lần ông ví mình
như nàng Scheherezade bắt buộc mỗi đêm phải bịa ra một chuyện). Do phải
viết hàng ngày như thế, Gautier tạo cho mình được tốc độ, và sự sống
động, (và đây là điều Flaubert chê ông). Nhưng nếu chúng ta bỏ qua
những điều đã trở thành bản kẽm, được lập đi lập lại đến trơ ra, về
những ông vua Hồi giáo, những hậu cung của họ, những nghĩa địa, cuốn
sách của ông thật tuyệt về mặt phóng sự. Nếu cuốn sách lúc nào cũng
ngân nga ở trong đầu Yahya Kemal và Tanpinar, giúp họ tạo ra đuợc một
hình ảnh của thành phố, ấy là vì Gautier, ngoài tài năng là một ký giả
nhà nghề, còn là một người biết nghe lời khuyên của Nerval, để tâm tới
đều mà bạn ông gọi là “những cánh gà”, lặn lội vào những khu phố tối
tăm, nghèo khổ, thám hiểm, khai phá những điêu tàn đổ nát, những tối
tăm, dơ dáy, để chỉ cho những độc giả Tây phương hiểu ra rằng, những
khu vục nghèo khổ đó quan trọng chẳng thua gì những khung cảnh nguy
nga, hoành tráng.
Khi đi qua đảo Cythera, Gautier nhớ Nerval nói
với ông về một xác chết ông ta nhìn thấy, được bọc trong bộ quần áo
dính dầu, treo lủng lẳng trên một cây cột (hình ảnh này, cả hai đều yêu
thích, và một trong hai người sau đó đã bắt chước làm theo, và sau này,
còn được Baudelaire ứng tác, đưa vô một bài thơ của ông nhan đề “Cuộc
hành trình tới Cythera”).
Khi tới Istanbul, Gautier, giống như Nerval,
vận chiếc “áo dài Hồi giáo”, và tàn tàn tản bộ một cách thật thoải mái.
Như Nerval, ông tới Istanbul vào mùa lễ Ramadan, và theo như bạn mình,
thả mình vào đêm hội của nó. Ông cũng mò tới Uskudar ngắm những ông
thầy tu Rufai cử hành những nghi lễ bí ẩn, dạo chơi nghĩa địa, nhìn
những đứa trẻ chơi đùa bên những bia mộ, đi coi hát bóng Karagoz, viếng
những cửa hàng, lặn lội trong những khu chợ đông đúc của thành phố,
chăm chú theo dõi những khách bộ hành qua lại. Vẫn bắt chước Nerval,
ông cố gắng diện kiến từ xa, ít ra một lần, nhà vua Sultan Abdulmecit,
trên đường đi cầu nguyện vào những ngày Thứ Sáu. Như hầu hết những nhà
du lịch Tây phương, ông cũng đưa ra những công thức của mình về đàn bà
Hồi giáo - cuộc sống khép kín, nỗi khốn khó, không làm sao lân la, tới
gần được, và sự bí ẩn của họ (ông khuyên độc giả của mình: chớ, chớ bao
giờ hỏi thăm sức khoẻ của bà xã của bất cứ một ông đàn ông Hồi giáo
nào!). Nhưng ông thành thực bảo chúng ta, phố xá thì đầy đàn bà, ngay
cả đàn bà đi một mình. Ông bàn dài dài về Cung điện Tokapi Palace,
những thánh đường, Nhà Ca Múa Hát, và tất cả những nơi chốn mà Nerval
gọi là những cái bẫy dành cho khách du lịch. Tuy nhiên, những nơi chốn,
phong cảnh, và đề tài như vậy, là đều dành cho khách du lịch Tây
Phương, họ đến Istanbul là để tham quan những nơi chốn đó, cho nên,
chúng ta cũng đừng nên quá coi trọng nhận xét của Nerval. Mặc dù đôi
khi tỏ ra thô lỗ, nhưng nói chung, Gautier, do say mê khái quát hoá sự
kiện, quan tâm đến chi tiết quái dị, khác thường, thật thích thú khi
đọc ông, đấy là chưa kể con mắt hội họa của ông, khi nhìn ngắm, mô tả
sự vật.
Cho đến khi ông đọc những bài thơ in trong Đông
phương của Hugo, vào lúc mười chin tuổi, Theophile Gautier vẫn mơ uớc
mình sẽ là một họa sĩ. Ông rất được thời của ông ngưỡng mộ, như một nhà
phê bình nghệ thuật. Để miêu tả những cái nhìn và những phong cảnh
Istanbul, ông dựa vào một cuốn tự vựng phê bình hội họa, chưa từng được
ai áp dụng cho Istanbul. Miêu tả bóng dáng của Istanbul,
và Mũi Vàng, nhìn từ ngọn đồi, nơi có tu viện Galata Mevlevi Lodge
(cũng từ chỗ này, Nerval đã từng mô tả thành phố, trước đó chín năm,
đây cũng là trạm cuối của đường xe điện Macka-Tunel, mà khi còn là một
đứa bé tôi được mẹ dẫn đi tới Beyoglu mua sắm đồ, và bây giờ là Quảng
trường Tunel): “Cảnh đẹp đến nỗi có cảm giác cảnh không thực”, và rồi
ông tiếp tục mô tả những ngọn tháp, những vòm cung ở Hagia Sophia,
Beyazit, Suleymaniye, Sultanahmet, những đám mây, những đợt nước của
Mũi Vàng, những vườn bách ở Sarayburnu, và, đằng sau chúng, là một nền
trời “xanh nhạt, dịu dàng đến nỗi không thể nào chịu đựng được”, và
những trò chơi của ánh sáng giữa chúng – ông miêu tả tất cả những nét
đó bằng niềm hân hoan thích thú của một nghệ sĩ ngắm nghía nét tinh sảo
của bức tranh do chính mình tạo ra, và bằng sự tự tin của một nhà văn
kinh nghiệm đầy mình. Ngay cả độc giả chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này
cũng cảm thấy thích thú. Panpinar, nhà văn Istanbul, cực kỳ mẫn cảm
trước phong cảnh Istanbul, được coi như là một “màn trình diễn rộng lớn
của ánh sáng”, người đã tạo ra cho mình cả một bộ tự vựng, một con mắt
chuyên về chi tiết, được vậy, là nhờ đọc Gautier. Trong một bài viết,
trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Tanpinar chỉ trích những tiểu thuyết
gia khác cùng đàn đúm với ông, về điều, họ không thèm để ý đến “nhìn”
và “mô tả” sự vật chung quanh và, trong khi vinh danh những nhà văn
viết bằng con mắt của một họa sĩ như Stendhal, Balzac, và Zola, ông nói
thêm, Gautier, chính ông ta, cũng là một họa sĩ.
Gautier hiểu làm thế nào chuyển những cái nhìn
của ông thành những chữ, làm thế nào chuyên chở những cảm nghĩ, được
khơi dậy bởi những đường nét, chi tiết thật đắt, và trò chơi ánh sáng,
ở đỉnh cao của quyền năng nghệ thuật của mình, khi kể lại những chuyến
đi của ông vào những “cánh gà”, của nhà hát Istanbul. Trước khi khởi sự
những chuyến đi dọc theo những bờ tường của thành phố để ra vùng ngoại
vi của nó, Gautier, dựa vào những nhà văn đi trước ông, đưa ra nhận
xét, những cái nhìn hoành tráng, tuyệt vời, về thành phố cần ánh sáng
và một khung cảnh nhìn thật rõ ràng, bởi vì, cũng giống như những dàn
dựng trên sàn hát, chúng sẽ mất sự quyền rũ, nếu nhìn thật gần: Khoảng
cách đem đến cho phong cảnh sự hoành tráng, vẻ tuyệt vời, đồng thời làm
nhạt nhòa đi, vẻ tiều tụy, u ám, chật hẹp, quá quắt, dơ dáy của những
con phố, và những mớ nhà cửa, cây cối hỗn độn, khiến chúng trở thành
lung linh mầu sắc, nhờ tấm“bảng mầu của mặt trời”.
Nhưng con mắt họa sĩ của Gautier còn tìm ra vẻ
đẹp buồn bã, giữa dơ dáy và hỗn độn. Ông chia sẻ sự hân hoan, niềm
khích động của văn chương lãng mạn trước những điêu tàn của những lâu
đài thành quách Hy Lạp và La Mã, những cái còn lại của những nền văn
minh đã biến mất, cho dù ông khinh bỉ sự rạp mình kính sợ. Khi còn trẻ,
mơ ước trở thành một họa sĩ, ông nhận ra những căn nhà trống rỗng của
khu Doyenne cul-de-sac, và Saint-Thomas-du-Louvre Church (gần điện
Louvre, kế bên nơi Nerval từng cư ngụ) thật quyến rũ dưới ánh trăng.
Rời khách sạn (ở Beyoglu bây giờ), và đi bộ
xuống Galata, tới những bãi biển Mũi Vàng, rồi vượt cây cầu Galata
Bridge (được tái xây cất vào năm 1853, một “cây cầu của những con
thuyền”, như ông viết), Gautier và nguời Pháp dẫn đường mò mẫm tới
Unkapani, khu Tây Bắc, chẳng mấy chốc, họ “lặn vào một mê cung của
những con đường nhỏ Thổ nhĩ kỳ”. Càng đi xa, họ càng cảm thấy bị cô
lập, đàn chó đi theo họ mỗi lúc một thêm đông, sủa gâu gâu, nhe hàm
răng nhơn nhởn của chúng ra. Mỗi lần tôi đọc về những căn nhà gỗ sập
xệ, không sơn sửa, tối thui, những vòi máy nước công cộng bị phá bể,
những ngôi mộ không chăm sóc, mái đổ nát, và tất cả những gì họ quan
sát được, trong khi đi tản bộ như thế, là tôi lại cảm thấy hoang mang,
ngỡ ngàng, bởi vì những nơi chốn mà tôi nhìn thấy, trong những lần ngồi
trên xe hơi với cha tôi, một trăm năm sau, y chang như vậy, chẳng có gì
thay đổi cả, ngoại trừ những hè đường. Ấy là vì Gautier, cũng như tôi,
đều cho rằng chẳng nghĩa địa nào đẹp, nếu thiếu chúng, chúng ở đây, là
những căn nhà gỗ ám đen, điêu tàn, hoang phế, những bức tường đá, những
con phố rỗng tuếch, những hàng tùng, bách… Khi tôi bắt đầu nghi lễ của
chính tôi, nghĩa là, bắt đầu thực hành những chuyến tản bộ thành phố
buồn như vậy, vòng vòng cũng như khu phố hoang tàn chưa Tây phương hóa
như vậy (buồn thay, lửa và xi măng, gạch, vữa chẳng bao lâu sau đó sẽ
xóa sạch], tôi nhận ra cảnh vật làm mệt nhoài người nhìn, như Gautier,
tuy nhiên cũng như ông, tôi vẫn cảm thấy sự hối thúc, “từ đường này tới
lối kia, từ xóm này qua xóm nọ”. Lời kêu gọi cầu nguyện có vẻ đối với
ông cũng như đối với tôi sau đó, là nhắm vào những “căn nhà câm điếc,
mù lòa, nằm trong im lặng và cô đơn”. Ông chắc sẽ nghĩ đến dòng thời
gian trôi chảy, khi ngắm nhìn một vài khách bộ hành, một vài sinh vật
thoáng qua: một bà già, một con thằn lằn biến mất giữa đám gạch đá, hai
hay ba đứa trẻ ném sỏi xuống một bồn nước bể nát (cảnh này làm ông nhớ
tới một bức tranh mầu nước của Maxime du Camp, viếng thăm thành phố hai
năm trước với Flaubert). Khi cảm thấy đói, ông nhận ra khu này vắng hoe
những tiệm ăn, những nhà hàng, và đành ngắt mấy trái dâu tằm từ những
hàng cây hai bên đường, chúng đem mầu sắc, hương vị đời sống đến cho
những con phố ở đây, làm dịu đi vẻ lầm lì của những khối bê tông, ngay
từ thời thơ ấu của tôi, hay là năm mươi năm sau đó, khi tôi đang viết
những dòng này, thì cũng vậy. Ông làm quen với không khí làng xã của
khu vực lối xóm Hy Lạp Samatya và Do Thái Balat, nơi được gọi là Ghetto
Istanbul. Mặt trước của những căn nhà ở Balat thì đầy những vết nứt nẻ,
lở lói, những con phố dơ dáy, bùn bụi, tuy nhiên, khu phố Hy Lạp Fener
được chăm sóc trông đỡ hơn. Nhưng bất cứ khi nào ông nhìn
thấy một mảnh tường còn lại của thời kỳ Byzantine, hay một khúc cống
lớn, điều mà ông ngộ ra, là gỗ, tưởng phù du, tưởng dễ tiêu trầm theo
với thời gian, hoá ra là bền bỉ hơn nhiều, so với gạch đá.
Những khoảnh khắc cảm động nhất trong cuộc tản
bộ dài, mệt mỏi, bất thình xẩy ra, khi Gautier bắt gặp những điêu tàn,
cái còn lại của một thời kỳ Byzantine, chạy dài thấu suốt một cõi phố
xa xa: Ôi điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn!
Gautier chuyển tải một cách thật là mãnh liệt,
cái sự dầy, cái sự chịu đựng dai dẳng với thời gian, của mấy bức tường
có từ thời văn minh Byzantine: ôi chúng mới cao ngạo làm sao, ôi thời
gian sói mòn chúng mới ghê gớm thế nào!Những vết nứt chạy dài trọn
chiều dài của một cái tháp (khi còn là một đứa bé, nhìn, là tôi thấy
khiếp sợ, làm sao không?), những mẩu vụn nằm lả tả, rải rác ở dưới đáy
những bức tường, trên mặt đất (giữa thời kỳ Gautier và của chúng ta,
trận động đất lớn vào năm 1894 đã gây tổn hại nặng nề cho những bức
tường của thành phố). Ông mô tả đám cỏ, ở trong những vết nứt, và những
cây vả: những chiếc lá xanh, lớn, của chúng làm dịu đi những đỉnh tháp,
[làm dịu đi] nỗi u sầu đần độn của những khu phố đìu hiu tiếp giáp với
những bức tuờng, sự im lặng của những lối xóm và những căn nhà xiêu vẹo
của họ. “Thật khó mà tin rằng, có một thành phố đang còn sống ở đằng
sau những ngổn ngang thành quách như thế này”, Gautier viết. “Tôi nghĩ,
chẳng có một nơi nào trên thế gian, sỏi đá khô cằn, buồn đến cháy da
cháy thịt, như là con lộ này, nó chạy dài hơn ba dậm, giữa những điêu
tàn, ở một bên, và nghĩa địa, ở một bên”.
Hạnh phúc nào tôi lấy ra được, từ những xác
quyết như thế về huzun Istanbul? Tại sao tôi hì hà hì hục, cố làm sao
chuyển tải tới độc giả nỗi buồn mà tôi cảm thấy ở trong thành phố mà
tôi trải qua trọn cuộc đời của tôi?
Vào những năm cuối của cõi 150 năm (1850-2000),
tôi không còn hoài nghi, không phải chỉ về chuyện huzun đã ngự trị
Istanbul, mà nó còn trải dài ra những khu vực chung quanh. Điều mà tôi
cố gắng giải thích, là, những gốc rễ nỗi buồn Istanbul, là từ Âu Châu:
Ý niệm này, thoạt đầu được khai phá, diễn tả, và thi hóa ở Pháp (bởi
Gautier, dưới ảnh hưởng của bạn của ông, là Nerval).
Và nếu như thế, tại sao tôi loay hoay bận bịu
quá nhiều với nó?
Tại sao bốn nhà văn của tôi lại lo lắng nhiều
như thế về nó? Về cái điều mà Gautier và những nhà văn Tây phương khác
nói, về Istanbul?
|
|