Notes
|
Đời sống văn nghệ
Thứ ba, 24/03/2009, 08:48
Nhiều tranh luận tại tọa đàm
'Biển và chim bói cá'
Hà Linh
Tham dự
buổi thảo luận về
cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Bùi Ngọc Tấn do công ty Nhã Nam tổ
chức hôm
20/3, hầu hết là bạn văn và những người tâm giao với ông. Nhưng không
vì thế mà
cuốn sách chỉ được một chiều tán tụng.
Lối kể
chuyện truyền thống,
cũ, cách cấu trúc truyện lỏng, rậm rạp cố hữu của cây bút tuổi 75 này
cũng được
đưa ra "bình" và "phê".
Biển và
chim bói cá lấy bối
cảnh thời bao cấp. Cận hơn là không khí sống, lao động, yêu thương và
bon chen
quanh một xí nghiệp quốc doanh đánh cá trên biển. Truyện không có nhân
vật
chính, chỉ phơi ra hàng chục gương mặt của những con chim bói cá ở cả
trên biển
lẫn trên bờ. Thế giới của những người trực tiếp đánh giậm trên biển đầy
nhọc
nhằn nhưng lắm tiếng cười; nhộn nhạo nhưng rất cô đơn; khát khao yêu
thương
nhưng lúc nào cũng thiếu thốn. Thế giới của những kẻ ăn theo trên bờ
cũng đông
đúc, bon chen với đầy mưu mô và thủ đoạn.
Bùi
Ngọc Tấn viết về biển,
như là viết lại quãng đời 20 năm làm việc tại Quốc doanh đánh cá Hải
Phòng của
ông. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét: "Đây là một đề tài khó
viết,
nhưng đọc vẫn thấy hấp dẫn, bởi nhà văn đã có khoảng thời gian đủ lâu
để trải
nghiệm, đã có những nguyên mẫu còn hay hơn cả hư cấu". Bản thân nhà văn
cũng thừa nhận, ngay từ những ngày còn lênh đênh đánh cá trên biển, ông
đã tự
nhủ, đây sẽ là một mảnh đất phì nhiêu để ông canh tác. "Tôi nghĩ thế
nào
cũng phải viết", ông nói và đã viết, trải rộng trên tất cả những gì mắt
thấy tai nghe và ghim sâu những trăn trở của bao nhiêu tháng năm chiêm
nghiệm.
Với ưu
thế của một người dày
dạn vốn sống, Bùi Ngọc Tấn rất tinh tế khi thể hiện cái nghèo, các khổ
khiến
con người ta hèn đi của thời đoạn bấy giờ. Ông không bình luận, chỉ
thản nhiên
tả những chi tiết rất thực: "Khi thuyền trưởng đem bia và nước ngọt ra
mời, anh đã làm ra vẻ rất tự nhiên, cười rất vô tư và khảng khái: Hôm
nay bị
đầy hơi, chỉ xin thuyền trưởng chén trà thôi. Còn cái này xin phép
thuyền
trưởng mang về, lúc khác uống. Thực ra có phải bụng dạ làm sao đâu. Mà
nó nằm
trong kế hoạch của anh. Phải đem được ít nhất một lon bia, một lon nước
ngọt về
cho mẹ, anh Vận và lũ cháu... Anh mở lon nước ngọt, rót ra cốc. Cả nhà
tròn mắt
nhìn những bọt nước thẫm màu nảy lên lách tách như mưa trong cốc. Mẹ
uống một
ngụm. Mẹ bảo ngon rồi đưa cho cả nhà nếm mỗi người một ngụm…".
Nhưng
cái vốn sống phong phú,
tràn trề ấy, lúc này lúc kia cũng khiến nhà văn rối. Ông tham chi tiết,
khiến
cuốn tiểu thuyết dày hơn 500 trang có lúc như hỗn độn, như rối rắm và
khó đọc,
khó nắm bắt. Chính vì thế, nhà văn Châu Diên nhận định, có thể coi
"Biển
và chim bói cá là cuốn tiểu thuyết tư liệu, kết quả từ cách làm việc
của một
nhà báo mang tâm hồn của một nhà văn". Ý kiến này của ông kéo theo
nhiều
phản biện tại buổi tọa đàm, cho rằng: không thể coi Biển và chim bói cá
chỉ là
cuốn tiểu thuyết tư liệu.
Không
khẳng định tư liệu hay
hoạt kê, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã dùng hai từ "Sum suê và khúc
khích" để miêu tả Biển và chim bói cá, trong đó, "khúc khích" ý
chỉ tính hài hước, hóm hỉnh trong trang văn Bùi Ngọc Tấn, còn "sum
suê" là những ám ảnh về chi tiết, sự kiện và nhân vật trong truyện. Ông
viết: "Có thể nói Bùi Ngọc Tấn là người nắm bắt các chi tiết rất giỏi.
Anh
là người thợ săn chi tiết tài tình. Anh là người đam mê chi tiết. Sự
sinh động
hấp dẫn của cuốn sách là ở chỗ ấy".
Khác
với Nguyễn Xuân Khánh,
nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn lại cho rằng: chi tiết rất quan trọng
trong tiểu
thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa được tổ chức một cách chặt
chẽ như
Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một thành công. Thanh Sơn cũng
nhấn
mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất khó đọc, rất mệt để
đọc đến
những dòng cuối cùng. Trước nhận xét thẳng thắn của Thanh Sơn, nhà văn
nói:
"Sơn nói đúng nỗi lo lắng của tôi".
Nhà văn
ký tặng sách cho Alec
(chồng của Đỗ Hoàng Diệu).
Nhìn
nhận cuộc sống là cái gì
đó "rất chặt chẽ nhưng cũng rất lỏng lẻo", Bùi Ngọc Tấn cũng tổ chức
nên một cấu trúc truyện "rất chặt chẽ nhưng cũng rất lỏng lẻo". Đây
cũng là yếu tố gây nhiều tranh luận tại buổi tọa đàm. Nhà văn gọi cuốn
tiểu
thuyết của ông như là một triển lãm sắp đặt. Nơi đó, ông triển lãm
những mảnh
đời, những tình huống của số phận chứ không đi sâu vào một thân phận cụ
thể.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh coi đây là một cách viết mới, phá vỡ lối cốt
truyện
truyền thống. Trong khi nhà văn, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến và Nguyễn
Thanh
Sơn lại khẳng định, lối viết này đã cũ.
Bất
luận những khen chê, khi
nhận xét về Bùi Ngọc Tấn, dịch giả, nhà thơ Dương Tường nói ngắn gọn:
"Bùi
Ngọc Tấn là bậc thày kể chuyện. Đặc biệt, ông sở hữu chất hài vốn rất
hiếm
trong văn chương Việt Nam".
Khi
cuốn Chuyện Kể Năm 2000
ra tới hải ngoại, và được khen um lên, văn chương
trác tuyệt -
mà trác tuyệt thật - hoảng quá, Gấu đi một đường đột xuất, khẩn tốc,
tức tốc… báo
động, không, không được, và viện dẫn Walter Benjamin, mỗi tài liệu về
văn minh là một
tài liệu về dã man: Ở dưới cái nền trác tuyệt của Chuyện Kể Năm 2000 là
một núi
man rợ, “tác phẩm, sản phẩm” - toàn là cứt đái - của chế độ Nhà Tù Vĩ
Đại Bắc Kít thải ra!
Có thứ văn chương bất khả đối với những kẻ sống sót. Nếu
coi CKN2000 là “trác tuyệt”,
thì đám sống sót không thể nào đọc, nói
gì, viết nó!
Nhưng
Biển và Chim Bói Cá, là một chuyện khác. Tuy chưa đọc,
nhưng đọc những lời phán của mấy ông phê bình gia trong nước, thì có vẻ
như mấy
ông này lại “không đọc được” Biến và Chim, khi chê nó “không trác
tuyệt”!
*
Có
thứ văn chương bất khả đối với những kẻ sống sót. Tại sao? Chalamov
giải thích:
Chính cái sự làm cho ngôn ngữ giầu có, trác tuyệt.. làm nghèo đi tính
sự kiện,
tính chứng thực của câu chuyện kể. Ở trong “Chuyện kể về trại tù
Kolyma” của
tôi không hẳn là những kỷ niệm tù, tôi không cố kể một câu chuyện kể,
un récit,
nhưng mà một điều gì đó không phải văn chương. Cũng không phải tản văn
có tính
tài liệu, une prose documentaire, nhưng mà là một thứ tản văn nẩy sinh
từ một nỗi
đau, như là một chứng liệu.
Chi
tiết là thượng đế trong văn chương. Đúng. Tuy nhiên, chớ lầm lẫn một
chi tiết
trong văn chương, với một nỗi đau, với một cái tên của một nạn nhân Lò
Thiêu,
hay Lò Cải Tạo, khi được đọc lên, trong một lời khấn bái, trong một cầu
siêu!
Trong lễ Xá Tội Vong Nhân.
Steiner
viết, trong Từ đáy vực đau, [tạm
dịch cái tít De Profundis
(1)],
về kinh nghiệm trại
tù của Solz:
Mỗi
một nỗi nhục nhã giáng lên một con người, mỗi một cú tra tấn, thì hết
đỗi
độc đáo, singular, và vô phương cứu chuộc. Mỗi một lần, một con người
đấm đá, bị
bỏ đói, bị làm mất phẩm cách, sự tự trọng, thì có một lỗ đen mở ra
toang hoác trong
cuộc đời của người đó… Solz bị ám ảnh bởi cái tính thiêng liêng của
giây phút đặc
biệt này. Như đã từng xẩy ra với Dante và Tolstoy, những cái tên riêng,
proper
names, đổ ra như thác khỏi ngòi viết của ông. Ông biết rằng, nếu chúng
ta cầu
nguyện cho những người bị tra tấn, chúng ta có bổn phận phải gắn chặt
từng cái
tên riêng vào trong hồi ức của chúng ta, và đọc lên, hàng triệu tên,
trong lời kinh cầu siêu không ngưng nghỉ, we must commit to memory and
utter
their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Biển
và Chim Bói Cá, như được biết, là cũng được viết trong cái tinh thần
khổ ải, của
một thời khổ ải của một miền đất. Thành thử những chi tiết ở trong đó,
thì đều
là những cái tên riêng của rất nhiều từng cá nhân con người, ở một cái
hợp tác
xã, trong một thời kỳ bao cấp, có thể như vậy chăng?
Chính vì vậy, mà giá trị văn chương của những tác phẩm, của Solz, của
Chamalov... đôi khi bị đem ra mổ xẻ. Tác phẩm của Primo Levi, chỉ mới
đây được đưa vô nhà trường. Văn của Solz bị chê là nặng nề. Ngay cả
Dos, và Tolstoy mà còn bị chê là không có văn phong. Đa số trong họ đều
không nghĩ, họ viết văn, họ là văn sĩ.
(1) De Profundis, up from the depths
[I have cried to thee, Lord]: Lời
cầu nguyện của tín hữu Ky Tô La Mã, trong lễ hạ huyệt người thân. Oscar
Wilde dùng làm tít cho một tác phẩm của ông, xb năm 1897, nói về nỗi
thống khổ của ông, và những hoàn cảnh đưa đến việc ông bị đi tù.
|
|