Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng
Tám, 1937
tại Kinh Môn,
Hải Dương.
Quê Sơn Tây
(Bắc Việt).
Vào Nam
1954.
Học Nguyễn
Trãi
(Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975
công
chức
Bưu Điện
(Sài-gòn).
Tái định cư
năm
1994 tại Canada.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm
Trắng,
Huỳnh
Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện,
Tạp luận
[Văn Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người Chết Mỉm
Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Bản quyền thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô
vụ lợi,
liên
lạc
email
Cần ghi rõ
xuất
xứ
[nguồn] khi sử dụng.
|
Trang đặc biệt
30.4.05
1
Ca Dao
Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ
thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái
nằm ngang,
Thương Em từ
thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín
cái nằm chồng,
Thương Em từ
thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái
nằm xoay,
Thương Em từ
thuở Em hay khóc nhè.
Kundera
cho rằng, nếu con người chỉ có một cuộc đời để sống,
thì tốt hơn hết nên chết đi cho rồi! Theo ông, có một đời chưa đủ, mà
cần phải
có hằng hà sa số cuộc đời. Một kỷ niệm, nó không phải để nhớ lại, về
một lần
xẩy ra trong đời, mà cứ thế xẩy đi xẩy lại mãi mãi, mỗi lần một khác,
trong trí
tưởng tượng của chúng ta. Em không hiện hữu, cuộc tình của chúng ta
không thật,
nếu anh không tưởng tượng ra em, không tưởng tượng ra cuộc tình…
Anh đang tưởng tượng ra Em, qua ca dao.
Thực tình, bi giờ chẳng ai có
thể là nhà văn, a Dichter,
nếu anh ta không tận tình hồ nghi cái quyền làm nhà văn của anh ta.
For in
reality, no man today can be a writer, a Dichter, if he does not seriously
doubt his right to be one.
May mắn làm sao, mới đây, tôi
vớ được một câu viết vội của một tác giả vô danh, mà nếu tôi có nói tên
thì cũng chẳng ai biết. Câu viết vội đề ngày 23 Tháng Tám 1939, nghĩa
là chỉ một tuần lễ trước khi Thế Chiến Thứ Hai nổ ra.
Câu đó như vầy:
"Nhưng
mọi chuyện vậy là xong. Nếu tôi thực sự là nhà văn, tôi đã có thể
ngăn chặn cuộc chiến".
"But everything is over. If I were really a writer, I would have to be
able to prevent the war."
Elias
Canetti [1905-1994, Nobel 1981]: Nghề
của
nhà văn, The Writer's
Profession, bài đọc tại Munich, Tháng Giêng 1976, được in trong Lương Tâm Của Chữ, The Conscience of words.
Trong bài Tựa,
ông tự hỏi, liệu có một người nào lại lấy lại được cái nghĩa của từ
tiếng Đức, nhà văn, dichter,
một khi nó có vẻ như đã bị huỷ diệt.
[Ôi
chao, bảnh chưa, sướng chưa! Trơ cu lơ có một thằng, mà phải là một
thằng nhà văn, thế là nó "bèn" ngăn được cuộc chiến!]
Người ta chẳng thể nào
làm cách mạng trong một xã hội lắng đọng, quần chúng không có ý chí đổi
thay. Nhìn ở một góc độ khác nào đó, chính những cách tân lẻ tẻ, một
cách khá là nghịch lý, lại chỉ củng cố thêm cho bức tường bảo thủ. Ðiều
này, những tên cai trị độc tài biết rõ hơn ai hết.
Tiểu
thuyết là gì?
Cái, tiểu
thuyết có thể nói, bất cứ dạng nào khác không thể nói, Là Cái Gì?
Đó là câu hỏi
cơ bản mà Hermann Broch đã từng đặt ra, và Carlos Fuentes dùng để mở
ra bài viết có tên là Tiểu
Thuyết, ở trong một cuốn tiểu luận sắp xếp các đầu vào giống như
của một cuốn từ điển, Điều Tôi Tin,
This I Believe, An A to Z of a Life.
Một
trong những câu trả lời, của Fuentes, là:
Tiểu thuyết
tái dẫn nhập con người vào lịch sử. Trong thứ đại tiểu thuyết, anh ta
được giới thiệu, với định mệnh của mình.
The novel is a
reintroduction of the human being into history. In the greatest of
novels, the subject is introduced to his destiny.
Chính
trị và Văn chương
"Văn chương
cần
cho chính trị, trên tất cả, ấy là khi nó đem tiếng nói đến cho bất cứ
cái chi chi chưa có tiếng nói; đem cái tên đến cho bất cứ
cái gì chưa có tên, đặc biệt là cho những gì mà ngôn ngữ chính trị khu
trục, hoặc toan tính khu trục."
"Văn chương thì cũng giống như cái tai nghe được những thứ quá sự hiểu
biết của ngôn từ chính trị; như con mắt nhìn quá cái quang phổ được cảm
nhận bởi chính trị."
Italo Calvino: Right and Wrong
Political Uses of Literature.
Chưa có tên, theo tôi, chính là cái xã hội Việt Nam hiện tại. Nó "không
còn là" xã hội chủ nghĩa, "chưa là" tư bản chủ nghĩa, không còn gì hết
và cũng chưa là gì hết.
Bênh nó, hoặc chống nó, bằng những giọng điệu đao to búa lớn, đều không
phải là giọng điệu của văn học, vì, cũng trong cùng bài, Calvino viết:
"Nobel văn chương năm này được trao cho Eugenio
Montale, [Nobel 1975], (1) nhưng ít người bây giờ còn nhớ, sức mạnh thơ
của
ông, là nó
luôn luôn nằm thật thấp, không nhấn mạnh bất cứ kiểu gì, sử dụng
một giọng điệu thực là khiêm tốn, và hồ nghi. Chính vì thế có nhiều
người nghe,
kéo dài ba thế hệ."
Tôi tin rằng, giọng điệu đó, mới đích thị là thứ mà
nhà văn trong nước cần, để gọi tên cái vô danh là xã hội Việt Nam hiện
đại, để đem tiếng nói đến cho những người chưa có tiếng nói.
Trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, có lẽ là do vậy?
(1): Eugenio Montale [nhà văn Ý] – Nobel Lecture, December
12, 1975
(Translation): Is Poetry Still Possible? [Liệu, Còn Thơ?]
Mô phỏng ông,
và Canetti, chúng ta tự hỏi, liệu, còn nhà văn Việt Nam?
Và liệu có nên thay mảnh đất có thực, có tên là Việt Nam, bằng mảnh đất
giả tưởng, có tên là Macondo?
Ở
Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều
hơn là do văn hóa. Sự thực bị bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự
thực.
Cuối cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói
dối.
Những tác phẩm của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới
chính trị,
nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ
nghĩa
hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực;
một chủ
nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là
của
những xã hội được tạo thành chỉ có “một nửa”; trong đó, cái cũ có vẻ
như không
thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối
nát công
cộng của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ riêng tư của từng người dân, tất
cả đều
trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez,
những
điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay
giữa ban
ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông
là một
hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác
mà chính
là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó là tính nhiệm
mầu của
ông.
Tình Yêu
Trong Thời Thổ Tả
Cuối
Đường
Đầu
năm 1949 tôi bỏ Sài Gòn về
Hà Nội. Từ một thành phố yên
ổn vui tươi trở lại, tôi rơi xuống một thành phố điêu tàn ngơ ngác...
Thư
độc giả
Thư phúc đáp
Còn một vấn đề mà bạn quên không nhắc tới, đó là, đọc ở đâu.
Chính vì bạn
quên, cho nên tôi suy ra, bạn đang ở một nơi muốn đọc gì thì đọc, không
ai cấm đoán, hoặc bắt phải đọc cuốn này thay vì cuốn nọ.
Và đây là một
đề tài lý thú của cuốn "Đọc Lolita ở
Teheran" [Reading Lolita in Teheran], một hồi ức về sách, a
Memoir in Books, của Azar Nafisi.
Ở chương mở đầu, tác giả, một cô giáo, viết: Tôi tưởng tượng ra mình
giữa những cô gái của mình, đọc Lolita
trong một căn phòng nắng quái ở Teheran. Nhưng, hãy cho phép tôi chôm
một từ của Humbert, tay thi sĩ/tội phạm trong Lolita, tôi cần bạn, độc giả của
tôi ơi, để tưởng tượng ra chúng tôi, bởi vì chúng tôi sẽ không hiện
hữu, nếu bạn không. Chống lại sự tàn bạo, độc tài, bạo chúa của
thời gian và của những chế độ chính trị, hãy tưởng tượng ra chúng tôi,
theo kiểu mà chính chúng tôi đôi khi cũng chẳng dám tưởng tượng về
mình: trong những giây phút riêng tư và bí ẩn nhất, trong những thoáng
chốc bình thường lạ thường nhất của cuộc đời, nghe nhạc, tương tư, vấn
vương, vương vấn,
bước chầm chậm dưới bóng những tàng cây, hay là đọc Lolita ở Teheran.
Và rồi, hãy tưởng tượng tất cả những gì vừa kể ra đó bị tịch
thu, bị phần thư, hoặc đem cất giữ ở một xó xỉnh nào đó.
Bạn hỏi, đọc để làm gì. Có khi, đọc là đọc cho người chưa được
đọc, hoặc bị cấm không được đọc.
Arthur Koestler và cú điểm
trúng tử huyệt của đế quốc Cộng Sản.
Bóng Đêm Giữa
Ban Ngày.
Coetzee, trong
bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga
Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một
cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái
chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc
quan, đã vứt vào
thùng rác: Thân
phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic
perception of life.
Nếu Brodsky là người đặt dấu chấm hết, Koestler là người dóng tiếng
chuông báo tử đầu tiên cho đế quốc Cộng Sản, với Bóng Đêm Giữa Ban Ngày
[1940], như David Cesarani, trong Athur
Koestler: The Homeless Mind, viết: "Hiệp cuối của đế quốc Xô
viết, xẩy ra vào năm 1989-1990, đã bắt
đầu cùng với sự xb của cuốn "Đêm hay
Ngày" [Darkness at Noon, 1940. [The final rout of the Soviet
imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon.]
Đêm hay Ngày
là
tên bản tiếng Việt đầu
tiên của nó, do Phòng Thông Tin Huê Kỳ ấn hành, thời điểm 1954, cùng
với vụ di cư của đồng bào miền Bắc.
Đọc Đêm hay Ngày, ngay những ngày
đầu vô Nam, Gấu chỉ còn giữ được một hình ảnh của nó. Đó là khi
Rubachov bị đồng chí tống vô tù, trong phòng giam, nghĩ tới những cú
tra tấn sắp sửa, anh "VC" nhiều tuổi Đảng hơn cả Đảng bèn dí cái đầu
điếu thuốc đang cháy bỏng vô lòng bàn tay. Đang say sưa lịm người với
thú đau
thương, giật mình ngó lên, chàng thấy tên lính gác đang đăm đăm nhìn
bằng con mắt cú vọ, qua lỗ đầu ruồi (?), ở cửa phòng giam. Tên gác bèn
nhếch mép cười
khinh bỉ, đóng sập đầu ruồi, và bỏ đi.
Milosz, trong cuốn sách ABC của
ông, dưới "đầu vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà thơ Aleksander Wat,
và cuộc trò chuyện của Wat với một tay cựu Bôn-sê-vích, the old
Bolshevik Steklov, liền trước khi xẩy ra cái chết của
tay cựu đảng viên đáng kính này, trong nhà tù Satarov.
Theo Steklov, những tay như Rubachov thú
tội, ngay cả những tội mà họ không hề phạm, không phải do tra tấn, mà
là do quá tởm quá khứ đầy ứ những tội ác của họ. Và cái chuyện tự làm
nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và tra tấn là không cần
thiết.
[According to Steklov, they confessed out of disgust at their own past:
they each had so many crimes on their account, that it cost them
nothing to demean themselves once more and torture was not necessary].
Quanh ông Kiệt có rất nhiều thông tin “tiêu cực”. Lá
thư mười năm trước của ông gửi đến trung ương đảng đã là “chim mồi”,
khiến nhiều nhân sĩ bị bắt. Vợ ông là trùm buôn lậu. Con ông sở hữu
những cơ sở kinh tế “hoành tráng” nhất nước hiện nay. Những tài khoản
bí mật ở ngân hàng nước ngoài, v.v
[Trích bài viết của Hoằng Danh, trên
talawas]
Gấu tui
sợ rằng, trường hợp "Thư Gửi Đảng" của mấy anh già sắp xuống
lỗ cũng là cùng lý do như trên.
"Đằng sau sự bệnh hoạn của tôi, là
con quỷ CS chủ nghĩa",
Wat đã từng tuyên bố với Milosz. Nhà phê bình Stanislaw
Baranczak nhìn ở ông như sự nhập thân hiện đại của Job, "không phải bởi
vì ông đau khổ hơn hàng triệu nạn nhân khác, nhưng bởi vì ông khăng
khăng tìm cho ra nguồn cơn nỗi đau của mình". Như nhận ra, bằng tính
cách tiên tri, chức năng thi ca của ông, trong "Thế kỷ của tôi", Wat giải thích,
"làm một thi sĩ không có nghĩa là viết nên những câu thơ, mà là một
cách thế đặc thù "kinh nghiệm toàn-kinh nghiệm", trong đó bao gồm những
việc làm của lịch sử... "
"Chính trị",
ông than thở, "là số mệnh của chúng ta. Trong cơn bão tố chính trị,
chúng ta trú ẩn ở mắt bão, trên chiếc thuyền mỏng manh là thi ca...".
Nghi
Lễ Trừ Tà Của Thế Kỷ
"Trong
thơ miền Nam vào thời kỳ sau 1954 đã xuất hiện một nhân tố hoàn toàn
mới, nhân tố đó là lịch sử."
Tô Thuỳ Yên,
trả lời Phan Nhiên Hạo, trên talawas
|
Jen's sister
Vientiane, 2004
Độc giả Tin Văn đón đọc
Phát hành
tháng 11, 2004
Chân
Dung
NQT
giới thiệu
Đỗ Long Vân
và
Joseph Huỳnh
Văn
Nhà xuất bản
Văn Mới.
Lô cốt trên đê
làng
Thanh Trì, Sơn
Tây
Phòng Tranh
Nguyễn Trọng Khôi
Phòng Ảnh
Adamdigitalstudio.com
Cát
Bụi Tuyệt Vời
Adam Studio hy
vọng tụ họp một nhóm bạn Việt cùng đi dự, và săn ảnh tại lễ hội Mardi
Gras vào tháng Hai, 2005 sắp tới tại New Orlean. Xin liên lạc: Duonganhliem@yahoo.com
Cần tổ chức
sớm để
"book" vé máy
bay, và khách sạn, với giá rẻ.
Trang Mardi Gras
Sao Mai
Quán Gió
Việt Báo
Talawas
VN Express
Vietnam_net
E_Van
Guardian
Chess
Alexa Ranking
92,832
|