Hãy
Gọi Ta Là Hiệp Sĩ Sư Tử!
"Đừng
gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi
ta là Hiệp Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt Buồn ám chỉ Đấng
Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư
Tử
là để chỉ con người, trong cuộc phiêu lưu tìm lại chính mình, một khi
thần thánh đã bỏ đi.
Ngày
Của Mặt Trời
Họ đứng bên nhau,
lặng im,
trong
ánh trăng đan dệt huyền diệu như một ảo ảnh. Dì mặc bộ áo lụa hồng, tóc
thả
dài, rực rỡ, mê hoặc. "Em nhìn thấy trăng không?", lâu sau người đàn
ông lên tiếng. "Có", dì Thương trả lời, và nép sát vào bạn tình.
"Hôn em đi", dì bảo. Người đàn ông cẩn thận áp chặt chiếc nạng gỗ
vào nách, cúi xuống, và dì, cố thật thẳng người, chờ đợi. Cái hôn kéo
dài, bất
tận, tôi tưởng tất cả đều ngưng đọng trong đó, cả hạnh phúc nỗi đau, cả
thời
gian... Khuya lắm, mới nghe tiếng lộc cộc, lộc cộc khua xa dần trên
phố.
Trần Thanh Hà
Lại Một Lần Nữa, Ra Tay Nghĩa Hiệp,
Bảo Vệ Tiểu
Thuyết.
In Defense of the
Novel, Yet Again.
Rushdie vs Steiner
Chúng ta ngày càng chán tiểu thuyết. Môn phái xuất hiện rồi
tuyệt tích giang hồ, nào hùng ca, nào sử thi, nào bi kịch.
Đón đọc trên Tin Văn, nhà văn gốc Ấn Rushdie "phạng" giáo sư Steiner.
Giới Thiệu
Nguyễn
Ngọc Tư
Một Mối Tình
Mưa vô
mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê, má tôi chặt
lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun
bánh, tôi hỏi
má gói chi nhiều vậy, má cười...
Lần
đầu đọc, trên một tờ báo địa phương, Một
Mối Tình, với cái
tên Nguyễn Thị Ngọc
Tư, mê quá, Gấu
tôi bèn lóc cóc type, post ngay lên Tin Văn.
Hỏi, có phải
một tác giả trong nước. Trả lời, không.
Cho tới bi giờ, Gấu tôi vẫn chưa thể biết, Nguyễn Thị Ngọc Tư của Một
Mối Tình, và Nguyễn Ngọc Tư , là một?
Nếu
bạn nghĩ văn chương Việt
Nam bi giờ ẹ lắm, và nhà văn Việt Nam bi giờ dốt quá, Gấu tôi khuyên,
nên tìm đọc Nguyễn Ngọc Tư.
Nhân vật nam trong truyện của bà, đa số thường bội bạc, và thường bỏ
đi, theo một hình bóng khác.
Hình bóng khác này, phải chăng là một... lý tưởng?
Nhà
văn gốc Ấn độ, tác giả những vần thơ của quỉ, Rushdie, trong cuốn
Nụ Cười Của Con Báo, viết:
Khi chính quyền Reagan khởi động cuộc chiến chống Nicaragua, ông thấy
mình đứng về xứ sở nhỏ bé của một lục địa [Trung Mỹ] mà ông chưa từng
đặt chân tới. Và ông ngày càng quan tâm, "bởi vì, nói cho cùng, bản
thân tôi là một đứa con của một cuộc nổi dậy thành công, chống lại một
quyền lực lớn, ý thức của tôi, là sản phẩm của cuộc chiến thắng của
cuộc cách mạng Ấn Độ."
"Nhưng có lẽ, điều trên còn thực, ở chỗ này, rằng những người như chúng
tôi, vốn không hề có nguồn gốc ông bà ông vải, từ những xứ sở Tây
Phương, hay Phương Bắc, chúng tôi cùng có chung một điều gì đó -
chắc chắn không phải là một điều chi thật là giản đơn, thí dụ như,
những con người thuộc thế giới thứ ba - nhưng ít ra, cái cảm nhận chung
của chúng tôi, là một cảm nhận thế nào là yếu đuối, thế nào là một cái
nhìn từ dưới, ngước lên trên....".
Và khi có cơ hội tới
Nicaragua, ông thú nhận, không tới, với ý nghĩ, mình giản dị chỉ là một
quan sát viên không đứng về phe nào.
Tôi nghĩ, những người nhận xét văn học Việt Nam bi giờ ẹ quá, là do, họ
chưa hề cảm nhận, có một nền văn học khác hẳn nền văn học của miền bắc.
Nền văn học của miền bắc, theo tôi, là một nền văn học chưa hề biết đến
cái cảm thức, thế nào là yếu đuối. Thế nào là từ dưới ngó lên. Sự
thất bại của Tự Lực Văn Đoàn cho thấy cái nhìn kẻ cả ở trên cao ngó
xuống người dân quê mở đường cho nền văn chương 'hiện thực xã hội chủ
nghĩa", cho chính
sách "tam cùng", của Cộng Sản.
Liệu những nhà văn miền nam theo miền bắc, khi viết Hòn Đất, Những Bức
Thư Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc, họ cảm nhận ra sự yếu đuối của miền nam, và
cầu cứu người anh em ruột thịt miền bắc?.
Chiến thắng miền nam càng làm cho nó - nền văn học cách mạng, chuyên
chính vô sản, cái nhìn sử thi... - một thêm kiêu hãnh.
Lẫm
liệt một thời, Nguyễn Khải đã từng tự hào.
Phải nhìn như thế, mới thấy tầm mức, ảnh hưởng, sự quan trọng, và cần
thiết,
của những nhà văn như là DTH, hay NHT.
Và, lẽ tất nhiên,
Nguyễn Ngọc Tư.
Cây
Bút
Đời Người
Dương Tường phán, nhà văn chúng ta dốt quá. Nguyên Ngọc, lịch sự, chi
tiết, và cũng thực tế hơn, nói, nhà văn Việt Nam cần kiến thức triết
học. Ngay cả Mác Xít "của chúng ta", cũng dởm, như là triết học, nhưng
thực, như là vũ khí, để đi xâm lược, không khác chi cây súng,
trong sứ mệnh khai khóa của Tây Phương trước đây.
Thơ phải có thép, nhà thơ phải biết xung phong, là vậy.
Nhưng, giả sử như nhà văn Việt Nam cần một kiến thức triết học, những
nhà phê bình Việt Nam còn cần hơn nhiều. Thất bại của Cây Bút Đời
Người, của Vương Trí Nhàn, nằm ngay ở lời dẫn, và là cái điều mà ông
gọi là may mắn:
Với tư
cách
một người chuyên viết
phê bình văn học có thể nói tôi có nhiều may mắn, bởi trong suốt cuộc
đời làm
nghề, tôi luôn có dịp được sống gần gũi với các nhà văn nhà thơ, ở cùng
cơ
quan, hàng ngày trò chuyện với họ, cùng họ bàn bạc về công việc văn
chương cũng
như việc đời.
"Ru mãi
ngàn năm", Benjamin
đã từng nói tới những cuốn sách ngủ những giấc ngủ dài ngàn năm,
chẳng khi nào tỏ ra hối hả, hoặc bực bội, vì chưa có độc giả nào ngó
tới chúng. Như thế nghĩa là gì?
Một trong ý
nghĩa của nó, là cái may mắn tuyệt vời của độc giả - tức nhà phê bình -
không hề quen biết tác giả.
Cái may mắn
quen biết ăn ngủ chung chạ với những nhà văn chỉ đẻ ra những tác phẩm
thuộc loại giai thoại, tiểu sử, trà dư tửu hậu, bù khú, điếu đóm văn
học, không phải phê bình
văn học.
Những bàn bạc về công việc văn chương cũng như việc đời, cao lắm cũng
chỉ đẻ ra một thứ tiểu sử tác giả, dùng cái đó để phê bình tác phẩm lại
càng chết nữa, điều này Naipaul trong bài
diễn
văn Nobel văn chương, đã
nói rõ, khi viện Chống Sainte-Beuve của Proust. Kundera thì ngang
ngược hơn, khi cho rằng [trong Những Di Chúc Bị Phản Bội], nhà văn phá
căn nhà của mình [hiểu như tiểu sử,
cuộc sống riêng tư] để xây một căn nhà khác, là tác phẩm. Lục lọi ba
chuyện lẩm cẩm linh tinh..., may lắm tìm đuợc, chỉ một viên
gạch!
Và một khi người đọc chú ý đến ba chuyện lẩm cẩm, thay vì Joseph K, như
vậy là Kafka lại chết thêm một lần chết nữa, một cái chết sau cái chết.
Một trong những 'chân lý' về phê bình, là: nhà phê bình phải chủ quan,
chứ không phải khách quan!
Cái gọi là chủ quan với một nhà phê bình, chính là khung triết học mà
người đó dựa vào đó, để khám phá, khai thác, thám hiểm tác phẩm.
Thí dụ, Barthes, Genette của cơ cấu luận; Sartre, của hiện sinh;
Lukacs,
Goldmann của Mác Xít; những nhà phê bình Nga của trường phái hình thức
luận.
Trên tất cả, nhà phê bình phải là một nhà văn. Đã qua rồi, cái thời nhà
phê bình ngự sử văn đoàn, ngồi trên cao gật gù cái đầu của mình, hoặc
xoa đầu những nhà văn, "Được, được,
toa
viết cái đó,
moa chịu
lắm", và sau đó, kéo nhau tới tiệm ăn mừng, không phải tác phẩm, mà là
lời phán, của nhà phê bình!
Để nói lên sự vô
thường bật ra từ một cõi văn chương Shakespeare,
Steiner, nhà phê bình-nhà văn [trong
Nhân Văn],
chú ý tới "vết gỉ sét của
một giọt sương trên lưỡi dao sáng ngời". Nhưng một thi sĩ, hay một nhạc
sĩ [Phạm Duy], thì lại nhận ra trong vườn của mình, bông hồng nở thơm
ngát vào buổi sáng nghe tin một người thân quen tử trận.
Tác phẩm phê bình là một tác phẩm của tác phẩm, một bản văn
choàng lên một bản văn, là vậy.
Giống như phần thuận, và phần đảo của cùng một định lý, nếu nhà phê
bình phải là nhà văn, thì, nhà văn phải là một nhà phê bình.
Thử nhìn lại Nobel mấy năm gần đây, là thấy rõ: Cao Hành Kiện, Naipaul,
Kertesz, Coetzee.. đều là những phê bình gia, tiểu luận gia bậc thầy.
Người kể lại kinh nghiệm, làm thế nào sống sót lịch sử của đám
đông Đông Phương, người xoáy mãi vào Lò Thiêu, hay một
góc bị bỏ quên của thiên đàng hạ giới [... that Africa could never, in
the European imagination, be the home of the earthly paradise, because
Africa was not a new world:
Rằng Phi Châu chẳng bao giờ, trong trí
tưởng tượng của người Âu Châu, là nhà nơi thiên đàng hạ giới, vì
nó không phải là một thế giới mới. Coetzee: White Writing].
Nếu Việt Nam sẽ có một Nobel văn học, thì một ông nhà văn Mít như thế
đó phải là cái lương tâm mà đám Mít có thể tin cậy [The writer - that
conscience in which his fellow man can believe." Normal Manea].
Đã có một thời, NHT là cái lương tâm đó.
Như Kundera, Milosz, and Kis, Manea tượng trưng cho tinh thần Trung Âu,
không chỉ vì ông sinh ra tại đây như họ, mà còn vì tầm nhìn của ông về
mặt tâm linh và văn hóa, hay nói như Danilo Kis, mà ông đã từng viện
dẫn:
"Ý thức rằng mình thuộc về Trung Âu, là ý thức rằng sau chót, tự thân
của nó, ý thức này là một ý thức về sự ly khai."
Liệu một nhà văn, một tinh thần, một ý thức như thế, sẽ có ở trong nước?