Nhật Ký Tin Văn
|
Người
trăm
năm cũ.
Đồng Vọng
cho Hồn Thiêng
Lò Thiêu
Cây
viết là cái mai, cái thuổng của tôi.
Nếu
Không Số Kiếp móc họng,
Kinh Cầu Cho Một Đứa Bé Chưa Ra Đời làm người đọc câm họng.
Đây là một cuốn sách mỏng,
một độc thoại dài, đều đều một giọng, thật tẻ nhạt, bám dính cứng, một
cuốn
sách nhỏ, mỏng, theo kiểu của Thomas Bernhard. Dòng văn lan man, tản
mạn,
nhưng, với tất cả những rối rắm của nó, thật rõ ràng. Giọng mời gọi,
khiến
người đọc, cho dù ngần ngại tới cỡ nào, vẫn sẵn sàng nhập cuộc. Nếu có
điều gì
làm người đọc có thể xả hơi trong chốc lát, để mà thở, lạ lùng, trớ
trêu làm
sao, đó chính là một, và chỉ một mà thôi: nhịp thở của văn chương. Nhịp
thở này
ước mong một hiệu ứng – nhưng rõ ràng là tác giả chẳng hề muốn một hiệu
ứng như
vậy, ông ta cưỡng lại mọi kiểu đó, cùng một đường hướng như ông đã
cuỡng lại
mọi đào thoát, mọi hòa giải, mọi ân sủng. Ông ta thì lô-gíc, khách
quan, và không
khoan nhượng.
Kaddish là kinh cầu dành cho
người chết của dân Do Thái. Nhưng ở đây, người nói [the speaker] nhắm
tới một đứa
trẻ không bao giờ được phép ra đời, một đứa trẻ mà người nói không thể
nào
tưởng tượng được rằng, mình sẽ là cha của nó.
Nói cho cùng, đem một đứa
trẻ của mình vào trong cõi đời này, theo một nghĩa nào đó, là hàm ý,
mình vẫn
tiếp tục sống sau cái chết của mình, nhưng với người nói ở đây, một
viễn tượng
như thế là không thể nào chấp nhận nổi. Đó là bởi vì, theo một cách nào
đó, ông
ta đã sống sót cái chết của chính mình rồi. Đã có lần, một người nào
đó, đào mộ
ông ta, [ “in the breezes”, “trong hơi gió thổi", như Paul Celan đã
viết, trong
Tẩu Khúc Của Thần Chết, Death Fugue], “và rồi… để cái mai, cái thuổng
vào tay ông
ta, bỏ mặc ông ta một mình, mi hãy hoàn tất công việc mà tao đã khởi
đầu đó, hãy
cố mà làm cho thật tốt, cho thật khéo, như là mi có thể làm được.”
Huỳnh
Phan
Anh, Gấu, và Thời Của
Chúng Ta!
Đọc
Buồn Nôn
Hà
Nội,
Thiệp và Gấu
[Subject:
Thư
Date:
Sun, 2 Apr 2000 14:56:33 +0200
From:
To:
Ông
Hai Lúa ơi,
Vừa
rồi NHT ngao du hải ngoại, có ghé thăm tụi này. Nói chuyện rất vui. Tay
này đặc biệt kiêu ngạo, ý thức rất rõ về danh tiếng của mình, về cái
nghiệp lỡ vướng vào, mà lại rất giản dị, không mầu mè tí nào, làm
tụi này nhớ đến ông Hai Lúa...]
Trong bài viết
Mỗi
người mỗi
khác, viết về ba nhà văn miền bắc, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu
Hương,
Phạm Thị Hoài, dựa vào cách nhà văn Do Thái, Amoz Oz đọc Y
Sĩ Miền Quê [Người
ta chẳng biết trong nhà của
mình có những gì], của
Kafka; và trong bài Tởm, dựa nhận xét của nhà văn nữ Nga
Tolstaya khi cho rằng,
ác quỉ nằm nơi
những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga, đã được chủ nghĩa Cộng Sản
làm sống dậy - Gấu tôi cho rằng, NHT là người đã nhìn thấy con ác quỉ
này, ở nơi chuồng lợn [heo] của một miền đất.
Nhưng liệu có thể
coi, Thiệp là một thứ "đại phán quan"? Một nhà
tiên
tri [khi tiên đoán, cái ác từ chuồng heo cứ thế nhân lên mãi?]. Hơn
thế nữa, một ông thầy... tối nguy hiểm [Tôi 'lụy' NHT, như một
tác giả đã
cho biết]?
Cú đánh đầu tiên vào đầu một
nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến đã từng cảm nhận: Nhà văn lưu vong
không đem theo được cùng với ông ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng với
sự mất tích độc giả - nhìn vào những trang viết cũ cứ như nhìn
vào... hư
vô.. - là chán chường, tuyệt vọng, là sợ... đếch ai còn biết đến
tên ta!
[loss of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral
torment].
Nhà văn lưu vong đau khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào ý
thức, thói quen tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao
giờ học đứng bằng đôi chân của chính mình.
Anh ta có thể thắng, nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua.
[He may win, but not before he agrees to lose]
Milosz: Ghi
chú về Lưu Vong
Tởm
Người
ta đã
nói nhiều về những tội ác của chế độ cộng sản. Ít ai cho biết, tôi đã
tởm chế
độ đó đến mức như thế nào. Câu chuyện sau đây là của nhà văn, nhà thơ
lưu vong người
Balan, Czeslaw Milosz, Nobel văn chương 1980, trong tác phẩm Milosz's
ABC's.
Cả lò nhà mày là Cộng Sản. Ra ngoài ấy
liệu liệu mà viết!
Lời bà P. chị của Gấu, nói với
thằng em,
khi Gấu trở
lại đất bắc,
sau hơn
nửa thế kỷ xa
cách [Tháng Sáu 2000].
|
|