|
Dec
16, 2003
Thank You, Mr Grass
"After
I
die," Nikita Khrushchev said towards the end of his life, "they will
place my actions on a scale - on one side evil, on the other side good.
I hope
the good will outweigh the bad." William Taubman does not find it easy
to
say which way the scales should eventually tip. After almost two
decades of
work on his exceptionally well-researched book, he found himself
sharing both
the "special affection" and the "special disdain" for
Khrushchev that he encountered among his Russian friends.
"Sau
khi tôi chết, " Nikita Khrushchev nói vào lúc cuối đời, "người ta sẽ
đem tôi ra cân, xem nặng về phía tốt hay là xấu. Tôi hy vọng, cân
nghiêng về phía tốt"; nhưng William Taubman, người viết tiểu sử
của ông, [Khrushchev: The
Man and His Era by William
Taubman 876pp, Free
Press, £25], cho rằng thật khó mà biết được cân nghiêng về phía nào.
Sau gần hai chục năm nghiên cứu về 'người có những chiếc vớ thủng', mà
ông coi là một trong số những bạn bè Nga của mình, ông thấy tởm thì tởm
nhưng thương thì cứ vẫn thương!
Cao Hành Kiện:
Không
Có Chủ Nghĩa
Nghĩ về hội họa
Paz:
Hình Tượng
Phỏng vấn Thanh Vân,
người dịch Coetzee
Đây
là lần đầu tiên
tôi dịch tác phẩm của một nhà văn Nam
Phi. Tôi không "bỏ qua" được Ruồng bỏ [Disgrace], cũng vì niềm kính nể
tác giả
của nó, người đầu tiên và duy nhất đến nay trên thế giới hai lần giành
Booker.
Tôi là người ngoại đạo, không chuyên về ngôn ngữ, chẳng may tác phẩm
tôi dịch
được giải Nobel...
[Tin Văn gạch
đít]
" Ở nơi đó, cũng vậy, giữa những ống khói, trong
những quãng ngừng của khổ đau, có một cái gì giống như là hạnh phúc....
Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc ở trại tập trung, điều mà tôi sẽ nói
tới sau này, khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người hỏi. Thì
cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi, hạnh phúc"
Kertesz: Mặt Trời Auschwitz
Diễn văn
Nobel 2003
J.
M. Coetzee
Thứ
Ba, 9 tháng Chạp, 2003
He
and his man
Anh
và người của anh.
Nhưng hãy
trở lại với người bạn đường mới của tôi. Với anh ta, thật là tuyệt vời.
Tôi dậy anh
ta tất cả những gì cần để trở nên có ích, tháo vát, có thể trông cậy;
thú nhất,
tôi dậy anh ta nói, và hiểu tôi, khi tôi nói; và chưa từng có một người
học trò
nào tuyệt vời như vậy.
Daniel
Defoe, Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký
Boston
là một
thành phố xinh xắn nằm trên bờ biển Lincolnshire,
người của anh ta viết. Người ta có thể thấy gác chuông cao nhất nước
Anh tại
đây; hoa tiêu thường dùng nó để định hướng tầu. Xung quanh Boston
là đầm lầy. Trâu nước nhiều vô số, và hằng hà một giống chim, khó chịu
với tiếng
kêu, cách xa hai dặm đường vẫn còn nghe, như âm vang của một tiếng súng.
Đầm lầy còn là nhà của
nhiều giống chim khác, người của anh ta viết; vịt nhà, vịt trời, nòng,
két, bồ
nông… và để bắt chúng, những con người của đầm lầy, the fen-men, họ dậy
những
con vịt mà gọi là vịt mồi.
“Fen” như vậy là những
vùng đất úng nước, những đầm lầy có ở khắp Âu Châu, trên toàn thế giới,
tuy nhiên
ở những nơi khác, người ta không gọi là “Fen”. Đây là một từ tiếng Anh,
nó sẽ
không thiên di, như loài chim hay loài vịt.
Những con vịt mồi ở Lincolnshire, người của anh viết, được
nuôi ở trong những cái ao. Người ta thuần hóa chúng bằng cách cho ăn
bằng tay.
Rồi tới mùa, chúng được đưa đi Hoà Lan, hay Đức. Tại những nơi này,
chúng gặp bạn
bè của chúng, vẫn những con vịt mồi này, hay khác. Nhìn thấy những vịt
mồi Hoà
Lan, Đức, chúng nhận ra rằng, đời sống của bạn
mình sao mà khốn khổ như vậy: mùa đông sông ngòi
đóng băng, đất thì
phủ đầy tuyết, và chúng không quên nói cho bạn mình hiểu, bằng thứ
ngôn ngữ
riêng của chúng, rằng ở Anh, nơi mà chúng từ đó tới, thật là một trời
một vực
so với ở đây....
The castaway
DJ Taylor on JM Coetzee's intriguing Nobel acceptance speech
Saturday December
13, 2003
The Guardian
Most distinguished writers, bidden to compose a
Nobel Prize
acceptance lecture, confine themselves to polite remarks about the
nature of
literature and the duties of the artist charged with creating it. JM
Coetzee,
on the other hand, has opted to file one of the devious little
metafictional
fragments of which his own fiction seems increasingly to consist. He
called it
"He and his man".
Một bài diễn văn Nobel khiến người đọc tò mò!
Thông thường mấy ông nhà văn được Nobel muợn dịp này để mà to
tiếng, bằng những lời lẽ rất ư là lịch sự, lẽ dĩ nhiên, về
văn chương và trách nhiệm nặng nề của nghệ sĩ. DJ Taylor trên tờ
Guardian, qua bài viết "The castaway" [người bị đắm tầu ở một hoang
đảo], cho rằng, J.M. Coetzee, thay vì vậy, đã
nói về những mẩu sáng tác có tính siêu giả tưởng của ông...
Nhân 80 năm ngày sinh Văn Cao
[15/11/1923]
Ba biến khúc tuổi 65
Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca?
Mùa
Xuân nói chuyện Mậu Thân
Vườn Thú Tuổi Thơ
Cầm Tưởng
Vị
Hoàng Đế của Hoài Nhớ
Emperor of Nostalgia
“Áo
Hung
không còn nữa”, Sigmund Freud viết cho chính mình, vào Ngày Đình Chiến,
năm
1918: “Tôi không muốn sống ở bất cứ một nơi nào khác… Tôi sẽ sống trong
què cụt
như vậy, và tưởng tượng mình vẫn còn đầy đủ tứ chi.” Ông nói không chỉ
cho
chính ông mà còn cho rất nhiều người Do
Thái của văn hóa Áo-Đức. Sự chia năm sẻ bẩy cựu đế quốc, và cùng với
nó, sự vẽ
lại bản đồ Đông Âu tạo nên những quê hương mới dựa trên sắc dân, chủng
tộc làm
bật ra một sự kiện thê thảm: Người Do Thái không làm sao chỉ ra, chỗ
này, chỗ
kia, vốn xưa kia là nhà của tổ tiên họ. Họ không có nhà riêng trong một
Đông Ấu
mới mẻ đó. Trước đó, họ vẫn coi cái đế quốc Áo Hung, như là nhà của họ,
hay nói
rõ hơn, cái nhà nước đế quốc siêu quốc gia cũ đó hợp với họ. Sự tái sắp
xếp
thời hậu chiến là một tai ương với người Do Thái. Và những năm đầu tiên
của nhà
nước Áo mới mẻ, ốm yếu bịnh hoạn, với sự thiếu hụt thực phẩm, nạn lạm
phát làm
mất tiêu bao chắt chiu dành dụm của tầng lớp trung lưu, bạo lực trên
đường phố
giữa những lực lượng địa phương, phe nhóm… chỉ
làm tăng thêm nỗi khốn khó của họ. Một số đã
nhìn về Palestine như là một nhà nước [a
national
home]; những người khác quay qua cầu cứu chủ nghĩa siêu quốc gia cộng
sản.
Hoài
nhớ
quá khứ đã mất, và nỗi nhức nhối về một tương lai không nhà, là ở ngay
tâm của
mọi tác phẩm chín mùi [mature work], của tiểu thuyết gia Áo, Joseph
Roth. “Kỷ
niệm không làm sao, không thể nào quên được của tôi, là
chiến tranh và sự chấm dứt quê cha, ‘quê
hương độc nhất’ mà tôi đã từng có: vương quốc Áo Hung”, ông viết vào
năm 1932.
“Tôi yêu quê cha đó”, ông tiếp tục viết về nó, trong lời mở tác phẩm
The
Radetzky March. “Nó cho phép tôi là một kẻ ái quốc, và là một công dân
trong số
tất cả những con người Áo, và cũng là người Đức. Tôi yêu những đức tính
và
những phẩm hạnh của cái quê cha đó, và giờ đây, khi nó đã chết, và đã
rời bỏ,
tôi yêu luôn cả những cái dởm dáng, những cái yếu
đuối của nó.” The Radetzky March đúng là một bài
thơ lớn, một ai
điếu cho một xứ sở có tên là Hadsburg Australia, được viết ở một miền
ven biên
của xứ sở vương giả này; một cuốn tiểu thuyết lớn lao của một kẻ chỉ có
một tí
dấu chân của mình, ở trong cái cộng đồng văn chương Đức.
Tuổi
hai mươi yêu dấu
Chương Bốn
Giải
trí bình dân
Tất
cả
bọn con gái đều cố ra vẻ tự nhiên
khi
mặc quần áo bơi ướt đẫm dán chặt vào
người.
|
|