Tù trưởng của tôi
Tù trưởng của tôi là trung úy Nhảy Dù
Đinh Đức Chính.
Trong binh chủng Dù, có thể nhiều người
biết trung úy Đinh Đức Chính là ai, nhưng trong phạm vi rộng hơn, những
quân nhân
trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa, như tôi
chẳng hạn, ít ai biết trung úy Chính. Tuy nhiên, có một người mà trong
giáo giới,
nói rõ là các thầy cô giáo và học sinh, nhiều người biết cụ Đinh Văn
Lô. Cụ Đinh
Văn Lô là giáo sư trung học dạy ở Saigon. Nhưng vì cụ Đinh Văn Lô có
cho ra mấy
cuốn sách giáo khoa môn Lý Hóa soạn cho học sinh trung học đệ nhất cấp.
Ở miền
Nam nói chung, cũng như tôi ở Huế, vì từng thấy nhiều thầy cô dùng sách
cụ Đinh
Văn Lô dạy cho học sinh, nhiều học sinh cũng dùng sách ấy, nên tôi biết
tên cụ.
Cụ Đinh Văn Lô là thân phụ trung úy
Nhảy Dù Đinh Đức Chính.
Khi Trần Phú Trắc (1) nói với tôi ông
Chính là con cụ Đinh Văn Lô, tôi cũng “hơi” ngạc nhiên. Chỉ “hơi” một
chút thôi.
Làm thầy giáo như cụ Đinh Văn Lô, có
thể thuộc giai cấp trung lưu hay cao hơn ở miền Nam hồi trước, lại là
nhà giáo
thì “cha làm thầy con đọc sách”, lại là người Bắc (di cư), rất trọng
việc học,
thì có thể ông Đinh Đức Chính đậu cử nhân, tiến sĩ rồi du học bên Tây
bên Mỹ như
nhiều người khác, dễ như không và cũng khỏi phải “đi lính”.
Thế sao ông ta lại nhập ngũ khi còn
trẻ.
Có phải vì thời thế không?
Khoảng các năm 1965, 66, khi ông Chính lớn lên, học
xong
trung học hay đang học đại học thì Cộng Sản Bắc Việt “chiếu cố miền
Nam” kỹ lắm,
“thề quyết chiến đấu” ghê gớm lắm. Thế nên, “Quốc gia hưng vong, thất
phu hữu
trách”. Thất phu còn hữu trách cho nên anh sinh viên Đinh Đức Chính
“xếp bút
nghiên”.
Ông Chính không thể chấp nhận cái “Tổ quốc Xã hội
Chủ nghĩa”
của Bắc Việt Cộng Sản. Đã Cộng Sản thì làm gì còn quốc gia, còn tổ
quốc, tổ cò...
Vì vậy, trước sự xâm lăng của “làn sóng đỏ”, tổ quốc Việt Nam là ở miền
Nam của
ông, không phải ở ngoài kia vĩ tuyến 17, đã không “hưng” mà lại đang
“vong”. Vậy
nên ông Chính cùng bạn bè nhập ngũ. Không đi trước cũng đi sau, vì
nhiệm vụ
thanh niên, vì lòng yêu nước, cũng như hàng vạn nguời miền Nam khác
vậy, ông Chính
“tòng chinh”. Người ta nhập ngũ rồi kiếm một ngành nào đó, ngồi văn
phòng mà
“giữ chữ Thọ”. Ông chính thì không, cũng như ông Trắc hay Hùng Móm em
tôi vậy,
mấy ông là sĩ quan Nhảy Dù. Lính không quân thì bay trên trời. Nhảy Dù
thì trên
trời nhảy xuống, trong khi đạn Dziệt Cộng ở dưới đất bắn lên như vải
cát. Thiệt
là gan cùng mình. Tôi là lính Thiết giáp, ngồi trong xe bọc thép, cũng
còn sợ đạn
Dziệt Công, huống chi mấy ông nầy chỉ có cái “áo hoa dù”. Đi đánh giặc
mà còn văn
chương dữ: Hoa dù, hoa đầu súng,...
Thế tại sao tôi gọi ông trung úy Nhảy Dù là tù
trưởng của
tôi, mà gọi một cách đàng hoàng, một chút vui đùa mà cũng vừa nghiêm
chỉnh.
Tù trưởng không phải là người lớn tuổi nhứt trong
đám tù,
cũng không phải là “đại ca” ngoài đời nên khi vào tù, cũng còn được “em
út” cung
kính, phục dịch nên gọi là tù trưởng hay “tù vương”. Đơn giản, với anh
em chúng
tôi, tù trưởng là người ở tù lâu nhứt đám, là người có “tuổi tù” cao
nhứt. Gọi
là tù trưởng là vì cái tình, cái thương, chớ không phải vì “tuổi đảng”
cao
nhứt, đảng viên nhỏ tuổi đảng phải tôn trọng, nịnh hót để mai sau,
“đồng chí nhớn
không quên đồng chí bé”, dành cho chút ơn mưa móc.
Bọn tôi, như Trần Phú Trắc, Nguyễn Quảng Thành, biệt
danh
là “Thành gù”, Dương Tiến Đông, biệt danh là Đông khùng hay Đông
cà-khịa, Nguyễn
Ngọc, biệt danh là Ngọc thiến, - trước khi ở tù, ông nầy cắt ống dẫn
tinh để
cai đẻ cho vợ -, Ngọc xùi vì mặt bị phong như cùi, còn gọi là Ngọc than
(2), như tôi, biệt danh là “mệ Hải” ở tù
sau tù trưởng
Đinh Đức Chính gần 5 năm, bì với ông ta thế nào được!
Tháng 6 năm 1975, ngày 23 hay
24 gì đó, tùy theo ngày “trình diện”, sĩ quan cấp úy ở
Saigon “đóng tiền” để vô tù. Tù trưởng Đinh
Đức Chính thì khác. Ông tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào,
bị bắt
ngày 25 tháng 2 năm 1971. Tính ra thì
ông Chính “thâm niên tù” hơn tôi những 4 năm 3 tháng 21 ngày, nếu kể
thêm ngày
nhuận 29 tháng 2 năm 1972, nên tôi gọi ông là “tù trưởng”, không những
là tù
trưởng của tôi mà của cả bọn chúng tôi.
Mỗi sáng chủ nhựt, được trại tù cải tạo cho khỏi đi
“lao động”, là bọn
tôi họp nhau lại, uống cà-phê, và trong cách “vui chơi, tắm giặt, nghe
đài” như
cán bộ thường nói, thì chúng tôi gác chuyện tắm giặt lại sau, cũng
chẳng bao giờ
nghe đài Dziệt Cộng mà vui chơi thì làm trước, có nghĩa là tụ họp nhau
uống cà-phê,
nói đùa, chọc ghẹo nhau cho “đã đời sương gió”, rồi chuyện tắm giặt...
tính
sau. “Chủ nghĩa lạc quan” mà! Ở tù Dziệt Cộng mà không biết lạc quan,
không
biết “tới rồi” - “Tới rồi” là tiếng chúng tôi hò reo cười giỡn khi nghe
tin mấy
chú Ba đánh dọc “sáu tỉnh biên giới” hồi tháng 2 năm 1979 - thì dễ
“chầu Phật
tổ” hay “Chúa gọi về” sớm mà thôi.
Nói cho đúng, không phân biệt cấp bậc, thì chúng tôi
có một
tù trưởng khác nữa: Hã sĩ Nhảy Dù Lê Văn Thành, người Huế, cùng bị bắt
một ngày,
một giờ, tại đồi 31, với cấp chỉ huy trực tiếp của anh là trung úy Nhảy
Dù Đinh
Đức Chính. Từ ngày đó cho đến khi được tha, “thầy trò Đinh Đức Chính -
Lê Văn
Thành” bao giờ cũng “hàn ôn” có nhau cả.
Sau
mấy chầu cà-phê của “những ngày đầu gặp gỡ”, hạ sĩ Nhày Dù Thành được
“tha ra
khỏi trại cải tạo” - như ghi trong lệnh tha, anh Thành đã xách gói ca
bài “đường
về quê” rồi. Hai vị “thâm niên” nay chỉ còn một. Ông Chính thì mất một
“trò”
trung thành - như chính tên anh ta - khi đói khi no, khi khổ mà không
có khi sướng,
bao giờ cũng có nhau. Hôm Thành về rồi, ngồi chơi, nhắc tới anh ta,
Đinh Đức Chính
nói: “Thằng ấy lùn mà lì lắm, lầm lì, ít nói mà chẳng sợ Việt Cộng bao
giờ.” Tôi
nói đùa: “Vậy mà anh hùng thước mốt đại tướng Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẫn
chê là
nhát gan.” Nghe tôi nói đùa, ai nấy đều cười. Có lẽ người ta so sánh
cái “loon”
đại tướng của ông Giáp với “loon” hạ sĩ của ông Thành đấy. “Loon” to
chắc gì đã
“ngon”?
Sau
hiệp định Paris 1973, hai bên trao trả tù binh. Hàng chục ngàn tù binh
Dziệt Cộng
ở trại tù Phú Quốc, Suối Máu và từ nhiều trại tù khác nữa, được trao
trả cho
Dziệt Cộng. Một số tù binh Việt Nam Cộng Hòa bị bắt ở Bình Định, Trị
Thiên, Bình
Long được Dziệt cộng trao trả cho “phe ta”. Còn đám bị bắt ở Hạ Lào,
như đại tá
Thọ, trung úy Chính, hạ sĩ Thành... thì lại không. Dziệt Cộng bảo rằng
những người
đó bị bắt ở Lào nên không thuộc quyền của họ, là do ở Pathet Lào giam
giữ. Nói
như thế là sai nhiều điều: Đánh nhau ở Hạ Lào là đánh nhau với Dziệt
Cộng,
Pathet Lào biết quái gì đâu?! Đó là cách làm khó, nhỏ mọn, vừa thiếu
trách nhiệm,
vừa vô nhân đạo, chẳng có một chút “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” nào
như Dziệt
Cộng thường rêu rao, tuyên truyền.
Bởi cái sự độc ác ấy mà ông trung úy Nhảy Dù
Đinh Đức
Chính trở thành “tù trưởng của tôi”, “Tù trưởng của chúng tôi.”
Tôi gặp tù trưởng hồi năm 1981, khi bọn tôi
từ “Trại Đá”
chuyển ra “Trại Ngoài”. Rõ hơn thì câu chuyện “Trại Đá”, “Trại Cây”,
“Trại Ngoài”,
“Trại A” hay văn chương một chút, Trại “Đồi Phượng vĩ” đầu đuôi như thế
nầy.
Sau
khi chiếm miền Nam xong, chưa được mấy ngày thì Dziệt Cộng dùng ngay
doanh trại
trên đồi Phượng vĩ của trung đoàn nào đó, thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh của
tướng Đảo,
làm “trại” Cải Tạo”.
Mấy ông
sĩ quan với binh lính Việt Nam Cộng Hòa không thiếu phần “lãng mạn tiểu
tư sản”.
Đã lập đồn chống giặc mà còn đặt tên doanh trại là “Đồi Phượng vĩ”, làm
như chỗ
đóng quân của mấy ổng là những hàng phượng trong sân trường Đồng Khánh,
Gia
Long hay Trưng Vương không bằng: “Vắng xa anh dần, Mùa thu đã qua một
lần, chợt
nghe bâng khuâng, lá rơi đầy sân...” như ông nhạc sĩ Nam Lộc viết, hay
như mấy ông
sĩ quan cầm ống vố ngồi vách đốc củ tỏi ở Pagoda mà nói chuyện chiến...
trường.
Dù ở
tù, mà lại tù Dziệt Cộng, cái “bản chất tiểu tư sản” cũng không vì tù
mà bị triệt
tiêu. Bọn tôi vẫn cứ gọi trại tù ở ngọn đồi ấy là “Trại Phượng vĩ”. Bọn
cán bộ,
bọn công an, hầu hết là con cháu Chí Phèo, Thị Nở, biết chi phượng vĩ
với phượng
không vĩ nên chúng gọi trại ấy là “Trại A”. Điều đáng buồn - buồn là vì
cái “dấu
tích” của quân đội VNCH nay đã hoàn toàn không còn gì nữa - là khi tôi
gặp “tù
trưởng của tôi” thì “Trại Phượng vĩ” chỉ còn lùm bụi hoang tàn. Bấy giờ
Dziệt Cộng
đã xây thêm một trại tù mới, chúng gọi là “Trại C”, chúng tôi gọi là
“Trại Ngoài”,
ở ngay chân đồi Phượng vĩ, bên kia con đường đá từ chợ Giá Rai vào
“Trại Cây”.
“Trại
Cây” là một “trường Cải Tạo” do “cách mạng” dựng nên sau “Trại A” không
bao lâu. “Trại Cây” là tên do anh em tù
chúng tôi đặt
ra, vì làm toàn bằng cây rừng, cũng chính do tù phá rừng, hạ cây, dựng
trại...
Tù xây trại tù cho tù. Dễ dàng vậy thôi!
Có
hai lý do “Trại Cây” được thành lập: Một là vì bấy giờ “trại viên” đông
quá. Quân
đội Dziệt Cộng chỉ “quản lý tù hàng binh Ngụy” trong thời gian đầu, sau
khi
Saigon sụp đổ. Lần hồi, “trại viên” được chuyển giao cho Công an. Công
an cần
thêm “trường” để “cải tạo” tù.
Thứ
hai, khu vực xây dựng “Trại B” là khu rừng
thuộc tỉnh Long Khánh thời VNCH. Hồi đó, vùng nầy Dziệt Cộng trú ẩn, di
chuyển
theo con đường từ mật khu Dương Minh Châu ở Bình Dương tới mật khu Mây
Tàu ở Phước
Tuy. Nếu trại tù xây dựng ở đây, “Phục quốc” - là những lực lượng không
chịu đầu
hàng, không chịu “thua Dziệt Cộng”, cứ tiếp tục hoạt động chống phá...
“cách mạng”
- sẽ không lập được căn cứ, mật khu, như Dziệt Cộng đã làm hồi trước,
v.v... Rút
kinh nghiệm từ hai cuộc chiến tranh Đông Dương vừa qua, Dziệt Cộng cho
“khai thác
trắng”, có nghĩa là triệt hạ hoàn toàn rừng ở khu vực nầy, cũng như khu
vực từ Định
Quán xuống tới Ngã Ba Dầu Dây. Đặc biệt khu vực nầy là vùng chiến lược.
Từ Định
Quán trở xuống là khu định cư của đồng bào di cư 1954. Vì vậy, trong
suốt cuộc
chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước (Tầu)”, Dziệt Cộng không mở được trận
đánh lớn nào
ở đây. Vâng, đó là chuyện “chiến lược của cụ Ngô” như anh em chúng tôi
thường nói.
Đó là điều bây giờ Dziệt Cộng sợ. Hai bên quốc lộ 20 nầy, nếu không
“khai thác
trắng”, phục quốc dễ hoạt động. Trong khi đó, Dziệt Cộng thì cứ cho
ngay rằng, những
người theo phục quốc, phần đông là từ trong các “giáo xứ” Gia Kiệm, Dốc
Mơ, Võ
Dõng... ở khu vực nầy mà ra.
Trong
cách nghĩ đó, Trại Cây, Dziệt Cộng gọi là “Trại B”, là ngọn giáo đâm
ngay sau lưng
các căn cứ “phục quốc” ở phía Bắc quốc lộ 20. “Phe ta” hết đường xoay
xở!!!
Tôi
và Trần Phú Trắc, - ông nầy là bạn với thằng em (Hùng móm) mà tù chung
với thằng
anh (là tôi) từ “ngày đầu gặp gỡ” 24 tháng 6 năm 1975 ở trường Taberd,
kéo nhau
đi từ trại nầy sang trại khác, hết Trảng Lớn về Long Giao, từ Long Giao
về Suối
Máu, rồi tháng 7 năm 1977, tôi với Trần Phúc Trắc theo nhau về “Trại
Cây”.
Đã hết
đâu!
Khi
tôi và Trắc về Trại Cây (Trại B) thì Trại Đá (Trại A) đang xây. Gọi là
Trại Đá
vì trại nầy xây hơi kỹ. Nhà gạch, vách gạch, mái “tôn xi-măng”, hàng
rào gạch
“lốc” cao vời vợi, lại còn chăng thêm giây kẽm gai ở trên đầu tường,
“cải tạo
viên” trốn đằng nào cho thoát.
Tin
tưởng đây là trại khó trốn, nên sau ngày 17 tháng 2 năm 1979, “Huynh đệ
Tương tàn” hay “Trung quốc đánh
sang ta” như lời Dziệt Cộng thông báo, thì
bọn tôi, gồm
hai đội 19, 20, phần đông có cấp bậc đại úy, hay thuộc ngành “An ninh
Tình báo”,
Cảnh Sát Đặc biệt được chuyển qua Trại Đá. Còn thêm một đội nữa từ
ngoài “Trại
Phượng vĩ” chuyển vào đây. Đó là đội của đội trưởng Bùi Bá Dành, phần
đông thuộc
Ban Văn nghệ của Trại. Hôm mồng Tết năm rồi, mấy ông văn nghệ nầy của
“bầu Trừ”
(3) tổ chức “Rước Mẹ Việt Nam đi thăm các con của Mẹ đang ở tù cải
tạo”. Sau vụ
“rước Mẹ VN” đó, hầu hết mấy ông văn nghệ vô “cát xô” nằm nghỉ, khỏi đi
cuốc đất
trồng bắp, rồi bị chuyển vào Trại Đá với chúng tôi, vì qua cái vụ “Rước
Mẹ VN” đó,
các ông văn nghệ, theo cái nhìn của Dziệt Cộng, đều “có vấn đề” cả đấy.
Vậy
mà có yên đâu.
Ở Trại
Đá một thời gian, chúng tôi bị chuyển ra Trại C, dành Trại A cho mấy
ông “đi thăm
lăng bác” về. “Thăm lăng bác” là tiếng chúng tôi gọi đùa mấy ông bị đày
ra Bắc.
Dziệt Cộng, một phần sợ Tầu Cọng khi tấn công qua VN, “cuỗm” mất mấy
ông thì
nguy to. Hoặc nữa, vì áp lực của Tầu hay Mẽo gì đó, như người ta đồn,
phải trả
mấy ông lại cho miền Nam, không được “đồng hóa” thành người Mường, Mán,
Lô lô,
Tày, Nùng ở thượng du Bắc Việt, như Dziệt Cộng đã âm mưu.
Tù
trưởng Đinh Đức Chính, cũng ở ngoài Bắc được đưa về, nhưng thay vì vào
Trại A, ông
được đưa vào Trại C với chúng tôi.
Một
hôm, trên đường đi cuốc đất phía sau đồi Phượng vĩ, Trần Phú Trắc nói
với tôi:
- “Để
tui giới thiệu với anh thằng nầy, nói chuyện chơi cho vui.”
-
“Ai vậy?” Tôi hỏi.
-
“Thằng nầy cũng ở Dù với tôi. Anh không biết nó đâu!” Trắc nói.
-
“Anh ta có biết Hùng (móm) không?” Tôi lại hỏi.
-
“Không chắc, khác Lữ Đoàn, cũng khó biết!” Trắc trả lời.
Một
lúc sau, Trắc nói:
-
“Anh biết cụ Đinh Văn Lô không?”
- “Cụ
Lô có soạn sách giáo khoa lý hóa?” Tôi hỏi.
-“Đúng
đó! anh chàng Đinh Đức Chính nầy là con cụ Lô.” Một lúc Trắc nói thêm:
- “Nó
là trung úy Dù, bị bắt từ Hạ Lào, mới từ ngoài Bắc về!”
Tôi
hơi ngạc nhiên khi nghe Trắc nói vậy, như tôi đã nói ở phần trên.
Chủ
nhựt tuần đó, chúng tôi đón “tù trưởng”. Ban đầu không có hạ sĩ Lê Văn
Thành. Hình
như có ai đó biết Thành, nên đề nghị mời thêm anh ấy. Một lúc thì Thành
có mặt.
Hôm đó có hai ông “tù trưởng”, Trắc và tôi, thêm “Thành gù” cũng sĩ
quan Dù, lại
có thêm cụ Niệm, là người anh em chúng tôi thương lắm vì ông đã già
lắm, sợ không
“qua cầu” - tức là chết trước khi được tha, mà quả thật cái lo của
chúng tôi là
đúng, Ngọc xùi, “chuyên viên cà-phê” thế
cho Phan Thành Long bị chuyển qua Trại Cây. Từ mấy lâu nay, mỗi khi cụ
Niệm được
thăm nuôi là chúng tôi có cà-phê Buôn Mê Thuột uống vì gia đình cụ Niệm
ở trên ấy.
(4)
Sau
một chầu cà-phê, chúng tôi bắt đầu hỏi chuyện Đinh Đức Chính.
Chính
kể:
“Tôi
bị bắt đúng vào tối ngày 25 tháng 2 năm 1971, ngay tại căn hầm đồi 31
của đại tá
Thọ.”
- “Hồi
đó ông làm chi?” Tôi hỏi.
- “Tôi
là sĩ quan không trợ Lữ Đoàn 3 Dù. Ngay hôm trước, máy bay của hai phi
công bị
bắn cháy. Tưởng họ kẹt lại qua đêm với chúng tôi, ai ngờ, hôm sau căn
cứ bị tràn
ngập, tất cả chúng tôi đều bị bắt.” Chính kể.
- “Cả
hai “giặc lái”nữa?” Trắc hỏi. Tính Trắc hay đùa, nên anh dùng hai tiếng
“giặc lái”
là tiếng Dziệt Cộng để gọi phi công Mỹ hay VNCH. (5).
- “Hình
như có thêm một người nữa, tôi không nhớ chắc, là ba “giặc lái”. Chính
trả lời,
cũng đùa như Trắc vậy.
- “Tôi
ở ngay Bộ Tư lệnh Lữ đoàn, làm việc theo lệnh đại tá Thọ. Ông là Lữ
đoàn trưởng.
Bộ tư lệnh đóng ở đây là “căng lắm.”
- “Căng
là sao?” Tôi hỏi.
- “Căng
là như thế nầy!” Chính giải thích. “Anh biết mục đích của cuộc hành
quân Lam Sơn
719 rồi chứ gì. Quan trọng nhứt là nhằm cắt ngang “Đường mòn Hồ Chí
Minh”. Lữ đoàn
3 đóng trên 3 ngọn đồi liền nhau: 29, 30, 31... Đồi 30 là “trận địa
pháo” của đại
úy Đương. Các căn cứ nầy và hoạt động của các đơn vị trực thuộc lữ đoàn
là mũi
dao đâm ngang hông tụi nó. Vì vậy chúng phải nhổ cho được các căn cứ
của Dù, với
cái giá bao nhiêu cũng được...”
-
“Không phải ở Chépone?” Tôi hỏi.
-
“Chépone là nơi thử lửa của hai bên. Tụi nó thách vô Chépone, mình vô
liền cho
nó biết tay. Mình chiếm được Chépone, nhưng cái giá trả cũng mắc.”
Chính giải
thích.
-
“Tui có nghe nói việc nầy. Nhận lệnh bộ Chỉ huy Thiết giáp xong, tui
mới ra tới
Khe Sanh thì quân ta rút, nhân tiện tui về Quảng Trị thăm mẹ. “Hùng
móm” cũng từ
Hạ Lào mới về. Quảng Trị tui lúc đó xôn xao dữ về tin ông trung tá Huấn
tử trận
ở Chépone, xác không đem về được. Vợ ông ta là hoa khôi Đồng Khánh đấy.
Ông cố đại
tá nầy là lúc đó làm tiểu đoàn trưởng,
“con cưng” của tướng Trưởng. Người ta nói hành quân Hạ Lào xong, ông
Huấn sẽ về
vùng bốn với ông Trưởng, bắt cái chức trung đoàn trưởng dễ như không.
- “Xưa
Kinh Kha sang Tần không về, đời nay Kinh Kha sang Lào cũng không về.”
Cụ Niệm nói
thêm vào, giọng không vui.
- “Từ
tờ mờ sáng ngày 25 tháng 2, tụi nó pháo dữ dội, mà mình thì không phản
pháo được.
Pháo xong một đợt, tụi nó di chuyển súng ngay. Máy bay quần thảo trên
trời không
tìm được nơi chúng nó dấu súng mà tấn công. Trong khi đó tứ phương tám
hướng, hướng
nào cũng có tụi nó pháo vô. Bọn tôi cứ thế mà chịu trận. Bên kia ngọn
đồi, hai
chiếc “tăng” của tụi nó xuất hiện, bắn trực xạ vào đồi 31. Đại úy Đương
ở đồi 30
cũng hạ ngang nòng súng chơi lại, bắn bay chiếc “tăng” của tụi nó.
Tưởng vậy là
yên, không ngờ hai chiếc khác lại lên, lại trực xạ vào bọn tôi. Pháo
đội của đại
úy Đương “chơi” thêm một lần nữa, “tăng” chúng nó lại lên. Tới lần nầy,
chúng tập
trung vào đồi 30, mấy cây pháo của mình bị tê liệt. Bấy giờ tụi nó mới
thừa thế
xông lên, đen như kiến cỏ. Chúng nó vừa xông lên đồi vừa la “Hàng sống
chống chết”.
Không có không yễm, không có pháo binh, bên mình chỉ là bộ tư lệnh,
lính đâu có
đông, chống thế nào được!” Chính kể.
- “Cắc
đơn vị trực thuộc đâu?” Trắc hỏi.
- “Hành
quân bung ra ngoài, bị tụi nó vây chặt không rút về được. Có về được
cũng không
kịp. Tụi nó đánh thần tốc. Điều bất ngờ là mình không có không trợ. Tui
gọi thiếu
đường bể máy mà không có máy bay. Thường thì trước kia, máy bay Mẽo và
mình yễm
trợ tối đa. Tụi nó có đông thì chỉ để mà nướng thôi.” Chính kể.
- “Ông
có nghe nói tụi nó dùng chiến thuật “hoa sen nở” không?” Tôi hỏi.
- “Tức
là đánh ngay vào trung tâm rồi đánh bung ra chớ gì? Anh nhớ chiến thuật
đó chỉ
thắng khi không có không yễm mà thôi. Mấy năm nay mình dùng chiến thuật
đó đánh
tụi nó thì có. Cứ ngay đầu não mà tấn công, tụi nó bỏ chạy ngay.” Chính
giải thích.
-
“Người ta nói trận Mậu Thân ở Huế, bộ tư lệnh tụi nó đóng ở khu rừng
phía tây làng
La Chữ. Thủy quân Lục chiến Mỹ đánh ngay vào đó, Dziệt Cộng rút khỏi
Huế ngay.”
Tôi nói.
- “Trận Đămbe
cũng vậy, tướng Đống cho đánh ngay vào bộ
tư lệnh của tụi nó,
tụi nó chạy trối chết. Nhờ đó tiểu đoàn 11 Dù của “Hùng móm” lập chiến công to.” Trắc nói.
- “Mình
có cái bất lợi. Nơi bộ tư lệnh của mình đóng ở đâu thì tụi nó rất dễ
nhận biết.
Còn tụi nó thì mình phải tìm “đỏ con mắt” mới phát hiện nó núp ở đâu!”
Chính thêm
ý kiến.
Nôn
nóng vì câu chuyện của Chính, tôi hỏi:
- “Vậy
rồi mình đầu hàng ngay?”
- “Tới
đó thì mạnh ai nấy rút, cứ theo giao thông hào đào sẵn mà lần xuống
chân đồi,
chỗ đó có cái khe cạn kín lắm. Ra tới đó rồi thì chúng tôi gom năm bảy
anh em gì
đó, thêm mấy ngoe bên đồi 30 cũng rút ra tới đây, ngồi nghỉ cho lại sức
để mà đi,
nhưng không đi được.” Chính nói.
-
“Sao không đi được?” Tôi lại nôn nóng hỏi.
- “Đại
tá Thọ!” Chính nói. “Chúng tôi biết đại tá Thọ chưa bị bắt, có lẽ ông
ta còn
trong hầm chỉ huy. Không thể bỏ “ông thầy” được, bọn tôi phải trở lui
cứu ổng.”
Chính giải thích.
-
“Khi đó trời cũng đã chiều,” - Chính kể - “bọn tôi chia làm hai, một
nửa tìm đường
đi tiếp, tôi với hạ sĩ Thành với hai sĩ quan nữa trở lui, tìm tới hầm
đại tá Thọ.”
- “Ông
ta chưa bị bắt?” Ai đó hỏi Chính.
- “
Chưa!” Chính nói. “Tụi nó vẫn chưa tìm ra hầm của ổng. Trong hầm cón có
thêm mấy
sĩ quan. Chúng tôi bàn với nhau, chờ trời tối một chút, sẽ lần lượt lẻn
ra, hẹn
nhau ở một tọa độ dưới chân đồi, chỗ con suối.
- “Rồi
sao nữa? Tui nóng ruột đây.” Tôi nói.
-
“Ngay cửa hầm, có một chiếc T-54 của tụi nó đóng ở đó. Dù vậy, trời
tối, chúng
tôi cũng có thể ra được. Đằng nầy có một thằng lính Dziệt Cộng...”
- “Nó
làm gì?”
- “Nó
đi tìm đồ ăn mấy ông ơi! Thằng chết đói. Có lẽ nó có lương khô nhưng
không đủ
hay vì lương khô của tụi nó là đồ Tầu, giống như bánh in của mình, ăn
chán lắm.
Lương khô của mình là gạo sấy, lại có cá hộp, ăn ngon hơn. Có lẽ thằng
chết đói
nầy quen ăn trộm lương khô của mình nên nó đi kiếm ăn.
Ngọc
sùi chen vô:
- “Lương
khô của mình ngon lắm, ăn hết sẩy.”
Tôi
nói:
-
“Chuyện đang gay cấn, ông vô lãng xẹt. Tiếp đi “tù trưởng”.
Chính
cười kể tiếp:
- “Thằng
nầy đi loanh quanh tìm đồ ăn của mình. Nó hy vọng khi rút lui khỏi căn
cứ, lính
mình có bỏ lại. Ai ngờ nó phát hiện ra miệng hầm.”
-
“Chết cha!” Trắc nói.
-
“Chết thiệt chớ chết cha gì!” Chính cười. “Thằng Dziệt cộng hô lớn lên,
vừa gọi
bọn chúng tới, lại la to vào hầm “Trong hầm ra hết không tôi bắn.”
Chẳng ai ra.
Chúng tôi nằm sát xuống đất, im re.
“Một
chốc tụi nó bốn năm đứa gì tới. Tụi nó cũng la to vào hầm, bảo ra.
Không ai chịu
ra. Tụi nó quăng vào một trái lựu đạn. Một người là to “Tôi bị thương,
để tôi
ra.” Anh ta ra thiệt, khai với chúng trong hầm không có ai hết. Chúng
nó hỏi đi
hỏi lại mấy lần như thế, chắc bụng rồi tụi nó mới dám vô hầm.”
- “Tụi
nó bắt hết?” Tôi hỏi.
-
“Ban đầu, tụi nó xuống hầm, không thấy ai hết. Trời đã chiều mà trong
hầm thì tối
lắm. Đại tá Thọ và cả đám chúng tôi núp dưới tấm bản đồ nằm dưới đất.
Tấm bản đồ
to bằng hai cái bảng đen lớp học, nên tụi nó không thấy. Một chốc, có
một thằng
nữa xuống, cầm đèn bấm. Nó rọi đèn vào tấm bản đồ và lật lên. Thế là
chúng nó
trói từng người. Trói tới ai nó cũng hỏi:
- “Mày
là đại tá Thọ?”
- “Mấy
người bị trói trước, không ai nhận mình là đại tá Thọ vì họ có phải là
đại tá
Thọ đâu! Lúc ấy ông Thọ đang đứng phía sau. Ông lên tiếng: “Đại tá Thọ
là tôi!”
Chúng nó xông tới, trói ngay ông ấy.”
Tôi
hỏi:
- “Ông
có nghĩ là chúng nó đã có lệnh tìm bắt đại tá Thọ khi chúng nó tấn công
vô đây?”
- “Chắc
chắn như vậy! Mình giữ bí mật dở quá!” cụ Niệm than.
-
“Sau nầy tôi có nghe người ta nói, khi chúng nó bắt được đại tá Thọ là
chúng nó
đã có “lệnh hành quân” của bộ Tư lệnh Quân đoàn I trong tay.” Tôi nói.
-
“Tui có biết câu chuyện như vầy.” Tôi nói tiếp. “Hôm trước ngày xuất
phát, có
party ở Quân đoàn, ông đại tá Nhật, trưởng phòng 3 lên hát bài “Anh
vuốt tóc em
một lần cuối” của Hoàng Thi Thơ. Người ta nói đó là điềm xui vì ngay
hôm sau,
trực thăng của ông Nhật bị bắn rớt ở Khe Sanh. Máy bay không bị cháy,
nên Dziệt
Cộng bắt được lệnh Hành Quân trong người ông. Còn như nói tình báo
Dziệt cộng nằm
ngay trong bộ Tham mưu Quân Đoàn hay bộ Tổng Tham mưu thì cũng không
chắc đâu vào
đâu. Thiệt cũng có mà nói mò cũng có. Nhưng cái chết của đại tá Nhật
thiệt hại
lớn lắm. Ông là linh hồn của cuộc hành quân, mọi sự do ông làm hết. Ông
chết bất
ngờ, không có người xoay xở kịp.”
Chính
kể tiếp:
- “Bắt
được đại tá Thọ rồi, chúng nó tách rời ông với bọn tôi, rồi đưa đi
ngay. Ông bị
đưa đi một mình, còn bọn tôi, cũng ngay tối đó, bị chúng nó dẫn đi bộ
ra phía bắc,
mãi tới Đồng Hới mới có xe đưa đi tiếp...”
- “Vậy
là “Cuộc đời “gian lao” từ đây...” Đào Sơn Bá hát đùa.(6)
hoànglonghải
(1)
Trần Phú Trắc, đại úy Dù, cháu kêu tổng thống Thiệu bằng cậu ruột (em
của mẹ Trắc)
(2)
Gọi là “Ngọc than” vì lần nào được vợ lên thăm nuôi, anh ta cũng than:
“Thằng
phường trưởng nơi vợ tui ở, cứ bảo vợ tui “Lấy chồng khác đi, chồng mày
không
bao giờ về đâu!” Nó phải khuyến khích vợ
tui rán chờ ngày tui được “cách mạng khoan hồng” chứ. Làm sao tôi “Yên
tâm học
tập cải tạo”. Sao nó lại nói vậy?” Nghe Ngọc than, có người nói “Cách
mạng
khoan hồng cái con c... Không xúi vợ mầy lấy chồng, làm sao chúng nó
cai trị miền
Nam. Phá hoại “gia đình ngụy” là chính sách của tụi nó đấy. Thằng
phường trưởng
làm đúng chính sách đấy, không phải xúi bậy đâu.”
(3)
Nguyễn văn Trừ, trưởng ban văn nghệ, chúng tôi gọi đùa “Bầu Trừ”. Ông
Trừ là
con của đô trưởng Nguyễn Phú Hải.
(4)
Trần Văn Niệm, anh ruột cầu thủ bóng tròn số 1 Bắc Việt (trước 1954)
Trần Văn Ứng.
Mỗi lần thăm nuôi, cụ Niệm có cà-phê Buôn Mê Thuột, mời cả bọn xúm nhau
uống.
Phan Thành Long là “chuyên viên” pha cà-phê cho cả đám. Khi Phan Thành
Long bị
chuyển qua Trại Cây thì “Ngọc xùi” đảm đương công việc nầy. Cụ Niệm
chết ở Trại
C, trước khi được tha, chôn ở “nghĩa trang tù Vườn xoài,” phía ngoài
trại.
(5)
Thượng nghị sĩ John McCain bị bắt ở hồ Trúc Bạch, tin Dziệt Cộng loan
đi rằng bắt
được một “giặc lái” Mỹ ở đấy.
(6) Đào
Sơn Bá cũng ở trại L3/T3 Trảng Lớn với Trắc và tôi. Phần đông chúng tôi
có tập
hát bài “Nguồn tin vui” nầy của ông Khuất Duy Trác (xem “Vết Nám” Văn
Mới xuất
bản, hồi ký tù cải tạo của cùng tác gả bài nầy).