29/07/2011 |
06:53
Bữa cơm với
ông Nguyễn Cao Kỳ bên chùa Quảng Bá
Bữa cơm cuối
năm ấy là cuộc gặp đầu tiên trong đời tôi với ông Kỳ, trước sự chứng
kiến của một
vị tướng an ninh Việt Nam.
Đã 6 năm
trôi qua kể từ lần gặp ấy, vị tướng an ninh của chúng ta nay cũng đã về
nghỉ
hưu, còn ông Kỳ vừa mới qua đời lúc mờ sáng 23.7 tại Malaysia sau một
cơn đau
phổi cấp tính.
Đấy là vào một
tối cuối tháng Chạp năm Ất Dậu 2005, qua sự giới thiệu từ người con
trai của
Bác sĩ Trần Duy Hưng- cựu Chủ tịch UBND Hà Nội, tôi đã có cuộc gặp với
ông Nguyễn
Cao Kỳ. Địa điểm gặp gỡ được chọn là tại nhà của một hoạ sĩ trẻ nổi
tiếng, một
biệt thự nhỏ nằm sát kề bên chùa Quảng Bá, không xa những vườn đào Nhật
Tân
đang ủ nụ, giữa xao xác gió đông bắc Hồ Tây.
Một tâm trạng
thật khó tả lúc ban đầu, nhưng cuối cùng thì cuộc gặp đã diễn ra đầm ấm
và thú
vị. Đầm ấm vì tất cả coi nhau như bè bạn vong niên, thú vị vì trong đời
làm
báo, tôi chưa từng bao giờ gặp một nhân vật nào như thế.
Trước 1975,
tôi và ông ở hai bên chiến tuyến. Ông là tướng ngụy, chúng tôi là bộ
đội giải
phóng. Sau 1975, tôi và đồng đội của tôi là những người chiến thắng.
Ông và
quân lính của ông là những kẻ chiến bại. Từ ngày ấy, suốt hơn 30 năm
ròng,
chúng tôi cùng đồng bào mình đổ mồ hôi, sôi nước mắt hàn gắn những vết
thương
chiến tranh, những vết thương có một phần do chính ông gây ra.
Từ ngày ấy,
cũng suốt 30 năm, sau một cuộc di tản cấp tốc sang Hoa Kỳ, ông lầm lũi
định cư
tại California xa xôi. Ông ở đó bên những người Mỹ và người Việt di
tản, nhạt
nhẽo và nhàn tản bóc từng tờ lịch đếm những ngày cuối của cuộc đời xa
xứ tha
hương. Những tưởng, sẽ chẳng bao giờ chúg tôi gặp lại ông.
Nhưng rồi ,
đạo lý cao cả của người Việt Nam mình, chính sách khoan hồng và nhân
đạo của Đảng
và Nhà nước ta, đã đem lại cho ông Phó Tổng thống chính quyền cũ Sài
Gòn một cơ
may được trở lại quê hương, để rồi tối ấy, được cùng chúng tôi gặp nhau
giữa đất
Hà Thành.
“Tôi nhớ xứ
Đoài mây trắng lắm ...”
Người Việt
Nam mình có một cách giao tiếp thật hay. Ngồi bên mâm cơm, người ta dễ
nói những
chuyện khó nói nhất. (“ Chung bát đũa ấy là gia đình đấy”, nhà thơ của
dải Trường
Sơn thời đánh Mỹ Phạm Tiến Duật từng có lần nhận xét thế, tài tình hay
cực
đoan?). Năm ấy, ông Kỳ 75 tuổi. Trông ông quá trẻ so với tuổi của mình.
Tóc muối
tiêu cắt cao, áo phông Pháp, quần ka-ki Nhật, trông ông vẫn còn tráng
kiện lắm.
Mâm cơm được vợ chàng hoạ sĩ dọn ra toàn những món ăn dân tộc: đậu phụ,
canh
cua, cà pháo, cá rô kho. Ông Kỳ dường như đột ngột trở lại tuổi thơ
xưa. Ông bảo
“đậu phụ rán là phải chấm mắm tôm mới ngon, chứ madi, xì dầu thế này là
chưa
đúng kiểu Bắc Kỳ”.
Rồi cách kho
cá, cách nấu canh cua, ông giảng giải chẳng khác gì một lão nông xứ
Đoài, chẳng
có vẻ gì của một người hơn nửa thế kỷ nay ăn cơm Tây ở nhà Mỹ. Rồi rượu
được
rót ra những ly gốm Bát Tràng, những ly rượu Vân xứ Kinh Bắc, sủi tăm
sóng
sánh. Ông Kỳ uống được lắm, chí ít như tôi thấy hôm ấy.
Ông bảo nếu
không định say, ông uống mấy cũng không say. “Dân pilot là uống thế đó"
-
ông Kỳ khà khà bảo vậy. Trong không khí như thế, chắc ông cũng muốn ngà
ngà đôi
chút để mượn rượu mà tâm sự, mà hồi tưởng, mà vượt qua những ngăn cách
vô hình
không thể nào không có giữa chúng tôi và ông ...
Tôi giới thiệu
với ông rằng ngay bên cạnh chỗ chúng tôi cùng ông đang ngồi là chùa
Quảng Bá.
Ông chợt sôi nổi hẳn lên khi kể về những rặng ổi Quảng Bá ngày xưa, khi
ông và
bạn bè trưởng Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ), hơn nửa thế kỷ trước đã
có những
buổi trốn học lên leo trèo hái ổi, chia nhau cũng ở ngay chốn này.
Rồi ông kể
nơi ông sinh ra cũng ở ngay bên cạnh một ngôi chùa, đó là chùa Mía, thị
xã Sơn
Tây. Hồi đầu năm 2004, khi về quê lần đầu, ông đã tới thắp hương, lễ
phật tại
chùa Mía, chùa Tây Phương, chùa Thầy. Ông bảo: “Tôi sinh ra bên chùa
Mía mà giờ
mới lần đầu tiên đến chùa Mía vì tôi rời quê đi từ lúc còn rất nhỏ.”
Ông Kỳ sinh
năm 1930, tuổi Canh Ngọ. Ở thị xã Sơn Tây bây giờ, những người trên 80
tuổi dân
gốc còn nhớ ông là con cụ Nguyễn Cao Hiếu. Cụ Hiếu có 3 người con, ông
Kỳ là
con trai út, trên có 2 chị. Học ở Sơn Tây hết lớp 4 thì cụ giáo Hiếu
cho cậu
con trai mà cụ cưng chiều nhất về học trường Bưởi Hà Nội. Chính ở
trường Bưởi,
ông đã lọt vào mắt xanh một cô bạn cùng trường.
Để rồi, như
hôm nay ông kể, trở thành mối tình đầu của ông. “Người ấy” tên là K.N,
nay vẫn ở
Hà Nội, đã hơn 70 tuổi rồi. Lần này về nước, ông bà có gặp lại nhau.
Ông thoáng
cười: “Cố nhân” có gặp lại cũng chỉ để mà ôn lại những kỉ niệm, chỉ để
mà nhớ lại
ngày xưa thôi”. Ông nói vui với người họa sĩ chủ nhà: “Nếu không có
chiến
tranh, tớ cũng đã chẳng trở thành tướng tá gì đâu, mà có khi lại đi vẽ
vời như
cậu rồi...
Mà ngày trẻ
tớ hát hay lắm, đã từng hát và được thâu thanh ở đài phát thanh, thậm
chí đã mơ
trở thành ca sĩ...”. Cựu Tư lệnh Không lực VNCH Nguyễn Cao Kỳ chợt trầm
ngâm:
“Ngày xưa, tôi lái máy bay, nhưng có bao giờ được ngắm nhìn đất nước
đâu. Ngày
trước, bay qua vĩ tuyến 17 là “đất nước” khác rồi. Giờ, một chuyến bay,
đất nước
liền một dải, vui sướng thật…”
Đưa ông Kỳ
“trở về mặt đất”, tôi hỏi ông thích ai trong các nhà thơ, nhạc sĩ Việt
Nam. Ông
hào hứng nói ngay: “Văn Cao, Quang Dũng, Hữu Loan”. Ông bảo Văn Cao
ngày xưa gọi
ông là một “gã ngông Bắc Kỳ”. Ông nhớ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan.
Ông mê lắm
“Đôi mắt người Sơn Tây” của nhà thơ đồng hương Quang Dũng. Ai đó trong
mâm cao
hứng, ngâm nga một đoạn “Đôi mắt người Sơn Tây” cho ông nghe, hình như
là vị tướng
an ninh của chúng ta thì phải:
“Đôi mắt người
Sơn Tây
U uẩn chiều
lưu lạc
Buồn viễn xứ
khôn khuây...
... Tôi nhớ
xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ
em nhớ thương...
... Bao giờ
ta gặp em lần nữa
Ngày ấy
thanh bình chắc nở hoa...”
Vâng, hôm
nay đất nước đã thanh bình nở hoa. Nhưng, tôi như chợt thấy trong đáy
mắt ông Kỳ,
thoáng “u uẩn chiều lưu lạc”. Chắc chắn không phải chỉ vì rượu, vì thơ?
Tôi đột
ngột hỏi ông: “Ông nhất định sẽ quay về sống hẳn ở Việt Nam chứ?”. Ông
trả lời
ngay, như chưa hề bao giờ phân vân, đắn đo: “Nhất định... Nhất định…
Tôi sẽ trở
về sống ở Việt Nam, ở quê hương mình”.
“Đứa con xa
đã tìm về nhà…”
Bữa cơm ở Quảng
Bá ấy chính là vào cuối ngày ông Kỳ vừa đi Tuần Châu, Quảng Ninh về.
Lần về nước
đầu tiên vào tháng 1.2004, ông cũng đã đi Tuần Châu. Lần này trở lại
Tuần Châu,
ông hi vọng "làm được một điều gì đó cho địa danh này nói riêng, cho
đất
nước mình nói chung”, như lời ông tâm sự . Ông Kỳ và những người bạn
doanh nhân
cùng đi với ông rất chú ý tới 2 dự án ở Tuần Châu.
Đó là dự án
xây dựng khu cảng biển lớn nhất Đông Nam Á được Cty Âu Lạc phát hiện
tại cửa
sông Nam Triệu và dự án xây dựng “thành phố Hạ Long mới” trên diện tích
15.000
ha với các khu đô thị, sân golf, trung tâm thương mại, hội thảo tầm cỡ
quốc tế,
nhà hát lớn. Lần đi Hạ Long này, bằng sự giới thiệu nghiêm túc và nhiệt
tình của
mình, ông Kỳ đã góp phần cho ra đời một Cty liên doanh Việt Nam – Hoa
Kỳ tại
Khu du lịch và giải trí quốc tế Tuần Châu. Cty liên doanh này mang tên
“Halong
Bay Group”.
Đối tác phía
Việt Nam là Cty TNHH Âu Lạc, phía Hoa Kỳ là Tập đoàn Andy Dye (Florida)
và Tập
đoàn Tree (Texas), do ông Andy Dye làm Chủ tịch và ông Đào Hồng Tuyển
làm Phó
chủ tịch. Các bên trong Cty liên doanh đã ký biên bản ghi nhớ việc
triển khai 3
dự án đầu tư trị giá gần 1,5 tỷ USD, trong đó dự án xây dựng các công
trình mở
rộng và hoàn thiện Khu du lịch và giải trí quốc tế Tuần Châu có tổng
vốn dự kiến
400-500 triệu USD.
Việc góp phần
cho ra đời và đi vào hoạt động Cty liên doanh nói trên, có thể coi như
là một kết
quả cụ thể của những dự định về làm ăn kinh tế của ông Kỳ tại quê
hương. Trả lời
câu hỏi về những tính toán kinh tế cụ thể mà ông dự định tiến hành
trong nước,
ông bảo: “Tôi đã 75 tuổi rồi, còn làm được gì nhiều đâu.
May chăng chỉ
có thể góp ý (nếu được hỏi) hoặc giới thiệu những nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư
vào Việt Nam. Mình đi ra ngoài nhiều rồi, mình biết những kinh nghiệm
làm ăn của
người ta thì mình cũng có thể phổ biến lại với người trong nước”.
Có một người
phụ nữ xinh đẹp luôn tháp tùng bên ông Kỳ trong cả 2 chuyến về nước của
ông năm
2004. Đó chính là cô Hồng Vân, con gái riêng của bà Lê Kim, người vợ
cuối cùng
trong số 3 phu nhân Nguyễn Cao Kỳ.
Cô Hồng Vân
cũng là một doanh nhân. Vợ chồng cô đã có doanh nghiệp làm ăn tại Việt
Nam nhiều
năm rồi . Hồng Vân có lần tâm sự: “Cha tôi rất mãn nguyện vì cuối đời
đã được về
lại quê hương, và càng mãn nguyện hơn nếu ông có thể bắc được những cây
cầu đầu
tư kinh tế nước ngoài về quê hương...”.
Trong cả bữa
cơm chiều cuối năm ấy, trong suốt cuộc chuyện trò, tôi vẫn có cảm giác
rằng
ông, sâu thẳm trong đáy lòng, vẫn giữ một khoảng cách nào đó, cho dù
câu chuyện
là cởi mở, không khí là ấm cúng. Chỉ duy nhất một lần ông không giữ
khoảng
cách. Đấy cũng là lần duy nhất ông “khoe khoang” tí chút trong câu
chuyện, tuy
cũng chỉ là chuyện văn nghệ thôi.
Ông kể, trước
năm 1975, nhạc Trịnh Công Sơn bị chính quyền Sài Gòn cấm một thời. Bản
thân ông
Kỳ cũng không mấy cảm tình với người nhạc sĩ phản chiến ấy. Thế rồi, có
một lần,
mấy viên phi công của Không lực Sài Gòn cũ, vừa quen biết với nhạc sĩ
họ Trịnh,
lại vừa là chiến hữu của ông Kỳ, đã cùng bà Mai vợ ông ngày ấy bố trí
một cuộc
gặp mặt, để ông được gặp Trịnh và nghe nhạc Trịnh.
Ông biết mục
đích cuộc gặp mà mấy viên phi công ấy tổ chức, nhưng ông vẫn cứ gặp.
Thế là, cuộc
gặp của ông Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hôm
ấy đã
diễn ra đúng như ý đồ của mấy người bạn kia. Nó đã trở thành một “chứng
chỉ
hành nghề”, một “giấy phép lưu hành” cho nhữnng bản nhạc phản chiến của
Trịnh
Công Sơn trong chế độ Sài Gòn khi ấy.
Câu chuyện
trên chưa được kiểm chứng. Nhưng, nghe ông Kỳ kể, tôi tin. Nhất là khi
ông nhắc
tới một bài hát của Trịnh Công Sơn, sáng tác vào giữa những năm 60, để
tặng cho
một người bạn rất thân của ông, một trong số những phi công có mặt
trong cuộc
ra mắt của Trịnh Công Sơn ngày ấy. Tôi chợt nghĩ đến một câu của bài
hát ấy,
sao mà hợp với ông Kỳ trong chiều cuối năm bên chùa Quảng này. Đó là
câu hát:
“Đứa con xa đã tìm về nhà”.
Tết năm
2004, ông đã “tìm về nhà”. Ông về đón Tết tại quê hương. Ông đã được
các vị Chủ
tịch Đoàn Chủ tịch UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Phạm Thế Duyệt, Thứ
trưởng Bộ
Ngoại giao Nguyễn Phú Bình, Phó Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước
ngoài
Nguyễn Chiến Thắng tiếp đón và gặp gỡ. Cũng từ Tết đó trở đi, sự trở về
của ông
được coi là bình thường, như hàng vạn hàng triệu những đứa con Việt xa
nhà mỗi
khi xuân về Tết đến lại tìm về quê mẹ…
Mấy hôm nay,
các báo đưa tin gia đình và người thân của ông Kỳ muốn được đưa ông về
an nghỉ ở
quê nhà như nguyện ước của ông lúc cuối đời. Ông sẽ về “nằm xuống, sau
một lần
vào viễn du”, ngay nơi quê cha bên chùa Mía ngoài Sơn Tây, hay gần chùa
Vĩnh
Nghiêm trong Sài Gòn nơi ông từng một thời tung tác?
Mà thôi, có
về đâu trên đất Việt quê mình, âu cũng là “ lá rụng về cội” mà, chắc
ông đồng ý
với tôi ? Chứ còn nói rằng “cáo chết 3 năm quay đầu về núi”, ở thế giới
bên
kia, chắc ông sẽ tủi buồn? Mà nói thế, có lẽ cũng phải tội với ông, với
“đứa
con xa đã tìm về nhà”, cho dù là đứa con một thời lầm lỗi, một thời tội
đồ? Phải
vậy chăng?
Theo Vũ Hùng
An ninh Thủ
đô