|
Nhân
Gió-O 10
năm
Trong tự
vựng của những nhà phê bình, từ
"tiền thân" (precursor) không thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi
trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng tạo ra
những tiền
thân của riêng người đó.
Borges: Những tiền thân của Kafka.
Câu văn trên
đúng là cái chìa khóa mở ra cõi văn
của bất cứ 1 ai, mơ đến chết đi được, viết 1 cái văn,
1 cái
thơ.
Và trở thành nhà văn
“Không
thể thiếu cái chữ Thầy trong ngữ vựng của phê bình gia”.
“Mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của
riêng người đó”.
Hai câu của
Borges, chẳng đúng là hai búa TGK, mà
TTT biểu thằng em:
Viết văn là
phải có Thầy. Hãy đọc, đọc, đọc, và
đọc… cho tới khi nào mày kiếm ra Thầy của mày.
Sở dĩ cõi
văn Mít ngắn cũn, cụt thun lủn, về
già Gấu nhận ra, là:
Viết hết
thời thanh xuân là hết. TTT
Sở dĩ như
thế, vì:
Không chịu đọc, đủ, để kiếm ra Thầy của mình.
Nhưng, Thầy là ai?
Thầy của bạn, chính là bạn đấy.
Khi Faulkner
ngưng viết, một phần là vì ông tin
rằng, đã có người tiếp tục viết, như ông, và sẽ còn đi xa hơn ông.
Trong
đời viết và đọc, và chửi thiên hạ, Gấu gặp 1 số nhà văn Mít, rất bảnh,
ở những
tác phẩm đầu tay, và cứ thế tàn lụi dần, vì nhiều nguyên do, nhưng
nguyên do tởm
nhất, là bận đóng vai nhà văn. Hay, đóng vai nhà phê bình, xoa đầu
thiên hạ,
nâng bi đàn anh theo cái kiểu "anh anh tui tui", và, ban phát thiên tài
cho nhân
loại.
Ngay
cả ở 1 dấng thật bảnh như PCT, cũng bị tẩu hỏa nhập ma, bị mù mắt, vì
hào quang
này. Nhưng ở PCT, lý do sâu thẳm hơn, là, ông không có lấy 1 ngày lính.
Trong 1
bài phỏng vấn ông, đăng lại trên Hậu Vệ, ông cho biết rất tởm xứ Mít,
bỏ đi Tây,
nhưng ở Tây, ông nhớ xứ Mít, lại bò về.
Theo
GNV, ông bò về [đọc Gió O, bài viết của Thi Vũ] danh vọng đầy
mình, và chết vì thế.
Và sở dĩ, ông mò về, là vì Phật Giáo bảo lãnh cho ông. Nguyễn Văn Trung
nói
đúng, PCT cũng là 1 thứ trốn lính.
Như
Nguyễn Văn Trung!
Cuộc
chiến VN khủng khiếp đến cỡ, ai dám đương đầu với nó, là bị nó làm
thịt. Với ý này, GNV đã từng viết về Nguyễn Thi, nhà văn VC, tác giả
Người
Mẹ Cầm
Súng, thí dụ. Sở dĩ đám VC nhà văn, sau cuộc chiến, chẳng có ai
viết ra hồn,
cũng là vì lý do đó. Nguyễn Khải, tưởng đây là dịp đổi đời, sau 30
Tháng Tư, viết
ào ào, Thời Gian Của Người, Vòng Sóng Đến
Vô Cùng, Gặp Gỡ Cuối Năm… nhưng ông
cuối cùng nhận ra, nhảm cả, “thời lẫm liệt” của ông qua rồi, thế là hu
hu đi
tìm cái tôi đã mất!
Nhưng, ai bỏ
chạy nó, là suốt đời bị nội thương trầm
trọng, và đều
trở thành 1 thứ cô hồn, như đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC: Có
đứa nào
làm được cái gì ra hồn đâu?
Đâu
phải chỉ VC cấm chúng về, như “người của chúng ta ở Paris", nhưng chính
chúng cấm chúng về.
Về
để nhìn một đất nước tan hoang, trong có phần đóng góp lớn lao của tụi
chúng ư?
Đám nhà văn
Trung Kít thời kỳ chiến tranh Việt Nam, đa số lâm vào tình trạng, vừa
mới lóe lên, vừa được ông TPG báo Văn đăng, chỉ 1 cái truyện ngắn, 1
bài thơ,
thế là cả đám kéo nhau ra quán cà phê xưng tụng lẫn nhau, tao là nhà
văn, nhà
thơ rồi!
Bậc Thầy vĩ
đại nhất của cả đám, là Võ Phiến,
nhưng có đấng nào nhìn ra đâu, và nhìn ra rồi, cũng chưa yên thân, phải
vượt Thầy,
làm thịt Thầy, mới có cơ may thành nhà văn!
*
Thiên tài Mít NTHL, hơn
thiên tài cũng Mít, Nguyễn Du, theo
bà Huệ, là do, NTHL cứa vào đời bằng con dao Mít, còn Nguyễn Du, "mượn"
con dao của
Tầu Lạ.
Tưởng chuyện đùa, nhưng
đây chính là đề tài của một bài viết,
một cái còm, commentary, "Tính
cá nhân của giải thưởng Nobel; những nghịch lý về “văn chương thế
giới’", của
Tim Parks. TLS April 22, 2011.
The
Nobel individual
Paradoxes of
'international literature'
A novelist
is not famous today unless internationally famous, not recognized
unless
recognized everywhere. Even the recognition extended to him in his home
country
is significantly increased if he is recognized abroad. The smaller the
country
he lives in, the less important his language on the international
scene, the
more this is the case. So if for the moment the phenomenon is only
vaguely felt
Anglophile cultures, it is a formidable reality in countries like
Holland or
Italy. The inevitable result is that many writers, consciously or
otherwise,
have begun to think of their audience as international rather than
national.
Một
tiểu thuyết gia, vào những ngày này, thì không nổi tiếng nếu không nổi
tiếng thế
giới, thì không được nhìn nhận nếu không được nhìn nhận ở mọi nơi.
Mít VC, một khi được
hải ngoại, quốc tế nhìn nhận, thì thế giá ở quê hương càng thêm thơm
mùi mắm tôm!
NHT hả?
Có tên trong danh sách chót của Man Booker đấy nhe!
Trong những
nhà văn được “mafia Do Thái” phát Nobel, mà Bà Huệ nêu tên, có Isaac
Bashevis Singer.
Trên
TV có
bài của Linda Lê giới thiệu ông này.
GNV rất mê Isaac Bashevis Singer,
và có
khá nhiều tác phẩm của ông, một tay kể chuyện bậc thầy. Ông được coi
như là người
phát hiện ra mẫu Thiên Sứ Tội Lỗi, the
"Sinful Messiah”, [đúng thứ Bắc Kít, đầy tội lỗi, ma quỉ, ác nhân,
nhưng
lại giương
cao ngọn cờ giải phóng Miền Nam], và nhập cảng, du nhập sex vô nghệ
thuật viết,
harnessing, importing, erotic energy to a work of art, [như Murakami,
sau này].
Milosz,
trong ABC’s có nhắc tới Isaac
Bashevis Singer, nhưng nghĩ, [cũng như bà
Huệ],
không xứng Nobel bằng nhà thơ Chaim Grade.
Post sau đây, cả hai
bài, một
của Linda Lê, và một của Milosz, [tuy không hẳn viết về Singer].
Có vẻ như bà
Huệ không khoái dịch dọt. Phải đọc Mít nguyên xi, thứ thiên tài NTHL,
không chôm
chĩa của
ai, sặc mùi Mít, mùi mắm tôm, thí dụ, thì mới được.
Trang TV
này, sở dĩ được mở ra, chỉ là để dịch dọt, nghĩa là chỉ đi ăn cắp của
tụi mũi
lõ.
Làm một tên biệt kích văn hóa!
Chẳng thèm xin phép, chẳng thèm để ý
gì tới luật bản quyền, vì nghĩ, tụi
mũi lõ, khi
chúng đi ăn cướp cả thế giới, chúng đâu có xin phép?
Tuy nhiên,
TV không hề hưỏng tí xái nào từ cái việc dịch dọt.
Và cũng rất
mong độc giả, đọc thoải mải, cho riêng mình, for personal use
only,
"đừng" như “cái tay” Vịt Nguyên, chôm sự kiện, về nguồn gốc từ “quần
đảo”, trong cái tít Quần Đảo Gulag, của Solz, rồi đi 1 đường tạp ghi,
kiếm tí
tiền còm.
Khủng nhất có lẽ là cái tay ‘gì gì’ đó, chôm cả 1 cuốn trường thiên
tiểu thuyết,
dịch dọt, đăng ‘fơi ơ tông’ lấy tiền bỏ túi, chưa thỏa, chưa đã, bèn
sáng tác
thêm, rồi phịa ra cả thiên giai thoại, [cái gì gì, lần đầu tiên khi vừa
đến được
Thiên Đường Tị Nạn, đọc, khóc òa, chẳng khác Bác H, khi đọc Lê Nin], để
trở
thành đồng tác giả, rồi cho xb ở trong nước, dõng dạc phán, đây là
tuyệt tác,
như “Chiến Tranh và Hòa Bường” của Tolstoi, một thứ thuốc tiên, hàn gắn
mọi vết
thương chiến tranh, mọi hận thù Mít!
Đọc blog,
cũng rứa, ông Mít nào cũng chôm, cũng dịch dọt tưới hột sen, vậy mà còn
đi 1 đường,
cấm chôm của tao đấy nhé!
Hồn Ma
Si
Tình
Linda Lê giới thiệu Isaac Bashevis Singer
Grade Chaim
by
Milosz
Dịch dọt là
phận người, sinh tử lão bịnh… và dịch. Tinh thần trang TV là của Tập
San Văn Chương (1)
ngày nào còn Sài Gòn, qua đó, là định nghĩa nhà văn [độc giả] là 1 kẻ
được thông
tri đầy đủ những dữ kiện của thời của mình, tạm dịch dọt cái từ “mieux
informer" của Tây mũi lõ.
Chỉ một khi được thông tri
tốt những dữ kiện,
thì độc
giả tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đếch cần đến phê bình gia, còn
dốt hơn
cả độc giả!
Nhưng dịch
không có nghĩa là chôm để sử dụng vào mục đích đê tiện là kiếm tí tiền
còm, tiền
lớn, vờ nguyên tác, vờ tác giả.
Trên tờ Interlife
có 1 bài viết, về ăn nhậu, nhưng sử dụng nó như 1 ẩn dụ, vào việc dịch
dọt, thật tuyệt:
A
THIN LINE BETWEEN FERMENTATION AND ROT.
Đường ranh mỏng dính giữa
"lên men" và "thúi
rữa".
Lên men là cái
đẹp của dịch dọt, thơm tho như mùi mắm tôm của Mít.
Thúi rữa, chính là cái vụ dịch
dọt, để ăn cắp, để kiếm lợi cho cá nhân mình.
Gấu, Bắc Kít,
càng về già, càng thèm lại một lần, ngồi giữa 1 phiên chợ làng, với cái
mẹt lá chuối,
bên trên là miếng bánh đúc, và tí mắm tôm, và cơn đói dài dài của Gấu,
đang chờ
được thỏa mãn.
Cả cuộc chiến Mít, là cũng
được nhìn qua hình ảnh tuyệt vời này.
Lẽ ra, sau 30 Tháng Tư, Mít cả nước có… mắm tôm.
Nhưng thay vì
vậy, chỉ có CỨT.
(1)
Ngay trong lời
phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy
đủ (những
dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một
điều: hãy
đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang
ảnh hưởng
đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu
vị của họ.
Cho phép tôi dùng chữ khẩu
vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp
nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị,
saveur, trong
tiếng La-tinh là cùng một nguồn).
Phải sau
1975, thì Gấu mới biết đến Borges, vào những ngày sắp bỏ chạy, và
thoát, quê hương!
Đó là thời gian
làm anh bán báo, tại sạp báo “nhà”, ngay trước chúng cư 27 Nguyễn Bỉnh
Khiêm,
mượn tên ông cán bộ VC nhà kế bên đăng ký kinh doanh. Trong khi bán
báo, rảnh
rang, đọc báo lai rai, Gấu vớ được 1 truyện ngắn của Borges, được dịch
ra tiếng
Việt, đăng trên tờ Văn Nghệ,
chắc thế.
Câu
chuyện một tay
chủ tịch xã một buổi chiều tới gặp một nhà huyền thuật nổi tiếng, xin
ông phù
phép, ban cho cái chức chủ tịch huyện, đại khái như vậy. Hai người đang
nói
chuyện thì anh người nhà thông báo, bữa ăn chiều có món gà gô đặc sản
Nam Bộ, đã
sẵn sàng, xin cho biết, ông khách có cùng dùng bữa với chủ nhân hay là
không.
Chủ nhà xua tay, chờ chút, chờ chút…
Đúng lúc đó, thì người nhà ông chủ tịch xã
hổn hển xuất hiện, kêu chủ về gấp, ông chủ tịch huyện ngỏm rồi, mọi
người
đang nhốn nháo kiếm ông, để ngồi vô ghế chủ tịt huyện! Nhà huyền thuật
bèn mỉm cười, vậy là khỏi phù phép nhe, nhưng mà này, cái chức chủ tịch
xã ông cho tôi nhe, để tôi cho thằng cháu. Ông tân chủ tịt huyện
lắc đầu, chức đó, tôi đã ban cho thằng em trai mất rồi, sorry.
Câu chuyện này
có tí giông giống chuyện con cá vàng và ông già câu cá, của Nga, cộng
thêm chuyện
“giầu sang chưa chín một nồi kê”, của Tầu. Bởi vì cảnh trên cứ thế lập
đi lập lại,
và sau cùng, khi ra về, ông chủ tịch xã vẫn chỉ là ông chủ tịch xã. Và
nhà huyền
thuật khi đó, kêu người nhà dọn cơm, miệng lẩm bẩm, bữa nay ăn gà gô
một mình vậy!
Sau đó, Gấu
tình cờ vớ được 1 bài thơ dịch qua tiếng Tây của Borges, viết về hạnh
phúc, đọc
thú lắm, thế là bèn loay hoay dịch, chắc cũng là lần đầu bày đặt “dịch
dọt” như
bà Huệ phán, và đưa cho anh bạn nhà thơ Joseph Huỳnh Văn đọc, anh khen
rầm trời,
mày sao bảnh thế!
Bởi thế, khi
ra hải ngoại, Gấu, nhớ lần gặp gỡ cũ, bèn dịch Borges, và được
nhà dịch
thuật Hoặc Ngữ, hay Hoặc Ngu “gì gì” đó, Gấu quên mất rồi, phán, dịch
như sấm, [chữ này của SCN, ông
ta muợn, và cũng là để vinh danh bà chủ sạp cá].
Tuy nhiên, cái
duyên kỳ ngộ của Gấu với Borges, là ở chỗ khác, nơi khác, và nó liên
quan tới…
Thanh Tâm Tuyền!
Gấu mới xuống
phố, ghé tiệm sách, mua tờ Người Nữu Ước, vì đọc cái tít “Quyền lực của
những ý
tưởng đi chôm của người khác”, nhưng cái tít bên trong thì đúng là
thương hiệu
của... Gió O, là câu thơ của Mai Thảo, “Chế lấy mây và gây lấy
nắng", tức “huyền thoại
sáng tạo”, creation myth.
Gấu này thực sự tin là, không thể chế được mây, gây được nắng.
Chế lấy, đừng vay muợn của đất trời.
Nhưng “chôm”,
thì được!
Còn số báo kia, là bài viết của Zadie Smith: “Thế nào tôi viết”.
Creation
Myth
The more
successes there are,” Simonton says, “the more failures there are as
well”—meaning that the person who had far more ideas than the rest of
us will
have far more bad ideas than the rest of us, too.
Càng cao danh vọng, càng dầy gian nan. Có cứng mới đứng đầu gió.
Heidegger cũng phán như thế, về cái sự thất bại khi chơi với Nazi: Tư
tưởng lớn
lầm lạc lớn!
Ông bạn…của
GNV cũng phán như thế, để giải thích cái sự không dám viết của mình:
Tao chỉ sợ
viết ra, mà, nếu mình lầm thì nhân loại bị diệt vong!
Vấn nạn “chế
lấy mây gây lấy nắng này” làm Gấu nhớ tới một chuyện thần tiên, về 1
nàng công
chúa, một buổi chiều ngồi bên song cửa, nhìn những hạt mưa rơi, long
lanh như
những viên ngọc, bèn thỏ thẻ với Đức Vua, con muốn có 1 chuỗi ngọc bằng
những
giọt mưa kia…
Vua ra lệnh
cả nước “chế” chuỗi ngọc mưa… chỉ đến khi có thằng cha Gấu cà chớn xin
gặp cô bé
công chúa, OK, tui xâu được chuỗi ngọc, nhưng công chúa chạy ra đầu
hiên lấy mấy
hạt ngọc mưa cho tui!
Ngay trong cái
bài tạp ghi đầu tiên của Gấu ở hải ngoại, Nước Cờ Hư Trúc, là Gấu đã đặt ra vấn
nạn chôm hay không chôm rồi.
Làm gì có sáng tạo, bởi vì
sáng tạo chỉ là lập lại
cái đã được nói rồi, nhưng thay đổi đi 1 chút, cho hợp với thời của
mình. Thay
đổi cái thực đơn, cái công thức, là ra cái mới, bằng cách vay mượn
những ý tưởng
đã có. Người ta đã chẳng cho rằng, Marx lật ngược Hegel, ra chủ nghĩa
mang tên ông.
Lịch sử văn học cho thấy, mỗi lần có đại tác phẩm xuất hiện, là đám phê
bình chăm
chú đọc nó, coi nguồn của nó ở đâu, thầy của thiên tài mới xuất hiện
này là ai.
Thành thử mới có câu, làm gì có những tuyệt tác vô danh.
Tuy nhiên, Borges nhận ra, trò khám phá ra Thầy.
Chỉ đến khi
ra được hải ngoại, đọc và dịch bài viết của Borges, “Những người đi trước Kafka”,
thì Gấu mới hiểu ra được một trong ba búa Trình Giảo Kim mà ông anh nhà
thơ
truyền lại cho Gấu [mi hãy đọc, đọc, đọc… và sẽ có ngày kiếm thấy ông
Thầy của
mi], là từ Borges .
“Gậy ông đập
lưng ông”, nhân đọc được 1 câu của 1 Tây mũi lõ, Gấu đặt câu hỏi về Bếp Lửa, trong bài viết trên Văn, từ năm
1973:
Trong một vài
trường hợp, chính học trò khám phá ra thầy. Phải chăng đó cũng là
trường hợp của
“bậc thầy” Thanh Tâm Tuyền.
TTT một lần ngồi
Quán Chùa với thằng em đưa ra nhận xét, những nhà văn Mít thường chết
non, viết
xong cái tuổi trẻ của mình là ngỏm. Trong nhận xét đó, có cái ý, không
kiếm ra
Thầy của mình, do thiếu đọc, thiếu sống, không đủ kiên nhẫn tìm ra ông
Thầy.
Nhưng trên hết,
chính là cái tính phách lối dởm, tao mà cần phải đọc ai, tao viết cho
thiên hạ đọc,
khiến văn chương Mít không thể nào khá được.
Thiên tài
NTHL theo Gấu cũng thuộc loại này, nếu đúng như những lời khen của bà
Huệ, nhà
thơ thiên tài móc tim ra viết, không thèm chôm của Tầu, như Nguyễn Du,
hay của
tụi mũi lõ, như Phạm Công Thiện.
Bữa trước, bạn
Đoàn Nhã Văn có nhã ý đề nghị phỏng vấn NQT, về sự ra đời của trang TV,
nhưng
do bạn thòng
theo 1 câu, thiên hạ có vẻ nực Gấu lắm, vì thái độ chẳng có tí hoà nhã,
ít chịu
khen ai, và nếu có khen, thì khen những người đâu đâu [thí dụ thơ lục
bát của Đá],
chưa từng xoa đầu/nâng bi những đấng “đời văn dài hơn đời người” dù còn
trẻ măng,
hay trẻ hơn Gấu nhiều, phê bình gia dốt như.. chó, [ui chao Gấu
Chó có khác],
chuyên phát ngôn khủng chẳng cần chứng minh, hay mỗi lần
viết phê
bình là vãi linh hồn, hay, hay.. thành thử Gấu cũng ngại, sợ DNV trúng
miểng lây.
Nhưng nhân lần
này, qua cuộc phỏng vấn LTH, biết đâu, có thể dấy lại một cuộc phỏng
vấn chết từ
khi còn trứng nước.
Trong những
kỳ tới, Gấu sẽ lèm bèm tiếp về những câu hỏi và trả lời của cuộc phỏng
vấn Gió
O của DNV.
NQT
Chứ tài hoa của Joseph
Brodsky cũng ngang ngửa cỡ tài hoa Nguyễn Thế
Hoàng Linh thôi mà.
LTH
BỨC THƯ GỬI
TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT
TÊN
riêng hôm
nay
tôi sắp đi
qua đường Nguyễn Du
không một
chút ảm ảnh hay tự hào về một thời lửa đạn
hồ Thuyền
Quang đẹp
phố phường rộng
và lòng tôi không hẹp
thế thôi...
NTHL
Cái tít bài
thơ, chứng tỏ nhà thơ không rành tiếng Việt.
Ðúng hơn,
chưa sạch văn phạm.
Chữ “hoặc”dùng
sai. "Hoặc", “or”, là để nối hai cụm từ tương đương.
Phải viết,
thí dụ:
Bức thư gửi
tới nhân loại và không được đặt tên
Hoặc,
Bức thư
không tên gửi nhân loại.
Ám ảnh,
không phải “ảm ảnh”.
[Không “ám ảnh”,
sướng thật. NQT]
Bài thơ này
chắc post lâu lắm rồi. Vậy mà có ai thèm đọc đâu?
Nếu đọc, đã
sửa lỗi đánh máy sai, về phía tòa soạn, hoặc đề nghị sửa, từ phía độc
giả.
Cả bài thơ,
ngây ngô, ngốc nghếch, làm ra vẻ suy tư, như đứa con nít nói ngọng, vậy
mà dám
so với thơ Brodsky.
Nói có sách
mách có chứng, thí dụ bài sau đây, của Brodsky.
Thơ NTHL có được cái giọng nhân hậu, cảm động, và
khiêm tốn “thế thôi”, như Brodsky?
Thế thôi!
Mấy lời!
Toàn giọng
con nít muốn làm bố nhân loại!
To My
Daughter
Give me
another life, and I”ll be singing
in Caffè
Rafaella. Or simply sitting
there. Or
standing there, as furniture in the corner,
in case that
life is a bit less generous than the former.
Cho tôi một
đời khác, và tôi vẫn hát
ở Caflè
Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng
ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường
hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng tiền thân của nó.
Brodsky: Gửi con gái của tôi
Liệu NTHL viết
nổi dòng thơ chót, trên?
Mà, tại làm sao bà Huệ lại
so ông nhóc này với…. Brodsky?
Một ông bị
nhà nước bắt, tống đi lao động cải tạo, lưu đầy nội xứ tại Hắc hải, rồi
tống ra khỏi quê hương, mày
không đi
là ‘nóng’ lắm đấy. Một ông nhóc [chắc cũng VC con, con một ông VC bự,
nếu không
phải xin lỗi. NQT], tiếng Việt chưa rành đừng nói rành tiếng Anh, tiếng
U, trong khi
Brodsky, sống bằng nghề dịch thuật, khi ra hải ngoại viết bằng tiếng
Anh, làm giáo sư Ðại Học, không có bằng cử nhân Triết, vì chưa học hết
Trung Học!
Quái đản nhất, là, thơ
NTHL không
có gì mắc
mớ đến thơ Brodsky [Bao thơ tôi ít nhiều chi là về thời gian, về thời
gian làm
gì con người. Brodsky], vậy mà sao bà Huệ lại lôi Brodsky ra, ở đây?
Khó hiểu
quá! NQT
GNV này thực sự không hiểu
phản ứng của NTHL ra sao, khi được bà Huệ khen như thế này?
*
Brodsky không
phải là một nhà thơ dễ đọc, và cái nguồn ‘tài hoa’ của ông,
phải một tín
hữu Ky Tô thì mới hy vọng nắm bắt được.
“At heart
Joseph was a pagan”, ở trái tim của ông,
Brodsky là 1 tên…
Nam Bộ, một tác giả [Mark Strand] nhận xét về Brodsky,
khi phải bàn về chất Ky tô của thơ ông [‘Brodsky’s every poetic breath
praises
God’, mọi hơi thở thơ của Brodsky thì đều ca ngợi Chúa Ky Tô].
Có hai nhà
thơ Ky Tô, cùng từ cái xứ chết tiệt CS, cùng được Nobel, là Brodsky
và
Czeslaw Milosz, nhưng ngay cả Milosz mà cùng thèm số mệnh của Brodsky,
đang "làm 1 nhà
thơ, nhà dịch thuật", tự dưng được Đảng tóm đầu ban cho án lưu đầy nội
xứ vì ăn
bám xã hội [Gấu cũng bị tội này, và đi tù vì nó vài lần], khi được thả
về thì lại
bị Đảng bắt phải lưu vong, đến nỗi KGB còn phải kiếm cho 1 ông chú nào
đó, bà
con đang ở hải ngoại, bảo lãnh ông! Thế rồi một ngày đẹp trời, như Bùi
Chát sau
này, khăn đóng áo dài bước lên đài cao nhận giải Nobel văn chương!
Bởi vì những
nền văn minh thì cũng có lúc đi đời nhà ma [Because cilivisations are
finite],
trong cuộc đời của mỗi một nền văn minh như thế, sẽ xuất hiện một thời
điểm mà
tâm của nó trở nên bất lực, không trụ nổi, [cease to hold]. Vào những
thời điểm
như thế đó, cứu vớt nó, cho khỏi bị phân tán, huỷ diệt, không phải
những miền,
mà là ngôn ngữ.
Đó là trường
hợp đã xẩy ra cho nền văn minh La Mã, và trước đó, văn minh Hy La.
Và cái
"job", giữ cho nền văn minh, thí dụ Mít, không bị phân hóa, sẽ được
làm bởi những con người miệt vườn, từ ngoại vi, chứ không phải mấy tay
ở trung
tâm, ở Hà Nội.
Trái với niềm
tin thông thường, phổ thông, ngoại vi không phải là nơi thế giới chấm
dứt mà
chính là nơi khởi đầu, mở ra.
Brodsky: Hải
Triều Âm [The Sound of the Tide]
[Nhưng] sự
hiện diện của Brodsky là một điểm tựa, hay điểm qui chiếu [a buttress
or a
point of reference] cho rất nhiều thi sĩ bạn bè của ông. Đây là một con
người
mà tác phẩm và cuộc đời luôn luôn nhắc nhở chúng ra rằng, mặc dù những
ra rả về
một cõi người đồng hạng, cá mè một lứa, thì nhà thơ của chúng nói, vẫn
có đẳng
cấp, thứ hạng, trong những ngày như thế này.
Cái đẳng cấp
không phải đuợc suy ra, giản trừ từ một tam đoạn luận, cũng không phải
được rút
ra từ những nghị quyết, những cuộc hội thảo... mà chính chúng ta xác
nhận, làm
mới nó mỗi ngày, bằng cách sống và viết.
Nó có một
cái chi thật gần gụi thân quen với sự phân chia rất ư sơ đẳng, tiểu
học, giữa đẹp
và xấu, thực và giả, lành và ác, tự do và độc tài. Trên tất cả, đẳng
cấp có
nghĩa là trân trọng đối với những gì được coi là có học, có văn hóa, so
với dè
bỉu, khinh khi, tởm lợm, đối với những gì hạ cấp, tầm thường, ti tiện.
Nhãn hiệu
"thăng hoa" [sublime] có thể áp dụng cho thơ của Brodsky. Trong phần
số của ông, như là một đại diện cho con người, có "một cõi tư duy lừng
lững"
[that loftiness of thought] mà Pushkin nhận thấy ở Mickiewicz:
"Ông ta
nhìn xuống cuộc đời, từ trên ngọn đỉnh trời".
.... [Nhà
thơ] Mandelstam, trong Gulag, trở nên rồ dại, tìm kiếm thực phẩm trong
đống
rác, [hình ảnh này chính] là thực tại về độc tài và thoái hóa bị kết án
phải huỷ
diệt.
Mandelstam đọc
thơ cho một vài người bạn tù, là khoảnh khắc cao cả [lofty moment] mãi
mãi tồn
tại.
Milosz: Ghi
Chú Về Brodsky
Thành thử cái
vụ Bùi Chát này, quá tuyệt, y chang lời tiên tri của Brodsky, về biên
cương nổi
dậy, báo hiệu sự chấm dứt của nền văn hóa sông Hồng.
Alongside the awe, the
respect, and the genuine love, these books contain some of the most
penetrating observations ever made about Brodsky,
both the poet and the man. About the former, Pyotr Vail observes:
"Pushkin was all about how we wanted to be; Brodsky
was all about how we really are". About the man, Annelisa Allleva makes
some cutting remarks, notably: "He stole other people's love in order
to hide his insecurity".
Derek Walcott puts the two together: "Joseph didn't make a distinction
between his calling and his life. He was the best example I know of
someone being a poet in the professional sense".
Joseph [HV] Brodsky đếch
thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên hướng nhà thơ và đời của ông. Ông
là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một người, là một nhà thơ, theo một
cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"Joseph was a man who realized himself. That for me is the main lesson
of his life. What more does a man need?".
Ui chao xin được xách dép cho nữ thi sĩ, mà chẳng... đặng, sao?
NQT
Mon, May 2,
2011 8:17:24 AM
Hi bác chủ
trang Tin văn,
Nhiều bận em
muốn gửi góp ý cho bác nhưng nghĩ xuề xòa thế nào lại thôi. Lần này em
không
góp ý không được vì thấy bức bối quá.
BỨC THƯ GỬI
TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT
TÊN
Ở đây nên hiểu
"BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI" và "KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN" là hai lựa
chọn cho nhan đề. Hoặc nhan đề là cái này, hoặc nhan đề là cái kia, chứ
"hoặc" không phải là để kết nối. Ở đây bác có một chút nhầm lẫn trong
sự hiểu, chứ không phải NTHL không rành tiếng Việt. Các từ bác dùng
"chứng
tỏ", "đúng hơn", "phải viết"... giống như kiểu
"phán như đúng rồi".
LTH có thể
quá lố khi so sánh Brodsky chỉ ngang cỡ Nguyễn Thế Hoàng Linh, nhưng
bác cũng
không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán
như đúng rồi.
Thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh chẳng có mắc mớ gì đến thơ Brodsky, đúng.
Nhưng bác
cũng đang làm một phép so sánh kệch cỡm đấy thôi.
Vài dòng nhắn
gửi, mong bác cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá
như thế.
Cảm ơn bác về trang Tin văn.
Thân ái,
J.
Phúc đáp:
Đa tạ. Sẽ làm
theo đúng như yêu cầu, ‘cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người
khác
quá như thế’.
NQT
Sáng nay, đầu
tháng GNV phải đi gặp bác sĩ & pharmacist, viết vội vài hàng, bây
giờ mới rảnh,
hầu chuyện tiếp vị độc giả.
V/v điều tiết
âm thanh cho vừa nghe, đừng làm phiền hàng xóm, thì kể như tạm xong.
V/v từ ‘hoặc’.
Cách giải thích
của bạn, thì cũng là thêm 1 cách giải thích, vì thế, bạn không thể
‘phán như đúng
rồi được’, và, “ở đây bác có một chút nhầm
lẫn trong
sự hiểu”.
Nếu
đúng như bạn cắt nghĩa, thì cái tít bài thơ thành hai cái tít:
“Bức
thư gửi tới nhân loại”
hoặc,
[Bức
thư] “không cần đặt tên”
Giả
như đúng, đây là ý của NTHL, thì thay vì viết như vậy, các nhà thơ
thường viết:
“Bức
thư gửi tới nhân loại”
hoặc
“vô
đề”
Vô
đề, “untitle”, hay untiled, là thói quen thường thấy ở nhiều nhà thơ,
hay nhạc
sĩ, “Bài không tên….”, thí dụ.
… nhưng bác cũng
không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán
như đúng rồi.
Một bài thơ của
Brodsky để so sánh với một bài thơ của NTHL. Tôi đâu có so sánh hai cõi
thơ.
Kính
NQT
Ghé bác sĩ,
ghé pharmacist, rồi, tất nhiên, ghé tiệm sách cũ, vớ được cuốn thơ
tuyệt vời, có
chữ ký của tác giả. Tập thơ này cũng tuyệt lắm. Từ từ Gấu giới thiệu
quí độc giả
TV.
Mua tờ The
New Yorker, May 2, 2011, có bài thơ
mới tinh của Zagajewski.
Gấu mết tay
này lắm. Tính dịch hết những bài thơ hiện Gấu có được, của ông, và của
Charles
Simic…
IN VALLEYS
And the
lovely Garonne, which passes
through
drowsy villages each night
like a
priest with the last sacrament.
Dark clouds
grow in the sky.
The
Visigoths live on, in certain faces.
In summer
the empire of insects spreads.
You consider
how not to be yourself:
is it only
on journeys, in valleys,
which open
others' wounds?
In a
bookshop the salesclerk calls
the author
of "To the Lighthouse"
Virginia. As
if she might
turn up at
any minute, on a bicycle,
with her
long, sad face.
But Paul
Valery (of the Academy) thought
history
didn't exist. Perhaps he was right.
Perhaps
we've been taken in. When he was dying,
General de
Gaulle tried to find him
penicillin.
Too late.
-Adam
Zagajewski
(Translated,
from the Polish, by Clare Cavanagh.)
EITHER/OR
1
My dream
after the dream of more war: that for every brain
there exists
a devil, a particular devil, hairy, scaly or slimy,
but compact
enough to slot between lobes, and evil, implacably evil,
slicing at
us from within, causing us to yield to the part
of the soul
that argues itself to pieces, then reconstitutes as a club.
When I
looked closely, though, at my world, it seemed to me devils
were insufficient
to account for such terror, confusion and hatred:
evil must be other than one
by one, one at a time, it has to be general,
a palpable something like carbon
dioxide or ash that bleeds
over the
hemispheres of the world as over the halves of the mind.
But could it
really be that overarching? What of love, generosity,
pity? So I concluded
there after all would have to be devils,
but mine,
when I dug through the furrows to find him, seemed listless,
mostly he spent
his time honing his horns-little pronged things
like babies'
erections, but sharp, sharp as the blade that guts the goat.
2
Just as in
the brain are devils, in the world are bees: bees are angels,
angels bees. Each
person has his or her bee, and his or her angel,
not
"guardian angel," not either one of those with" ... drawn swords
... "
who"
... inflict chastisement ... " but angels of presence, the presence
that
flares in the conscience not as philosophers' fire, but bees'.
Bee-fire is
love, angel-fire is too: both angels and bees evolve
from seen to
unseen; both as you know from your childhood
have
glittering wings but regarded too closely are dragons. Both,
like trappers,
have fur on their legs, sticky with lickings of pollen:
for angels the
sweetness is maddening; for bees it's part of the job.
Still, not
in their wildest imaginings did the angel-bees reckon
to labor like mules, be
trucked from meadow to mountain,
have their compasses fouled so they'd fall on
their backs,
like old
men, like me, dust to their diamond, dross to their ore,
but
wondering as they do who in this cruel strew of matter will save us.
1.
Đoàn Nhã Văn: Chào chị Lê Thị Huệ.
Nhân 10 năm kỷ niệm gió-o, chúng tôi mong chị
chia xẻ cùng độc giả về quãng đường đi qua. Nhưng trước tiên, xin chị
cho biết:
tại sao "gió-o" mà không là cái tên khác? Và chị mang cái
ý tưởng này bao lâu, trước khi chính thức
trình làng?
Note: Câu văn
trên, nên sửa lại.
-Chia sẻ, không
phải chia xẻ.
-Cái câu cuối,
phải để lên trên, nếu không độc giả sẽ gặp lúng túng, khi đọc,
Câu viết lại, chí ít,
nó như thế này:
Nhân kỷ niệm 10 năm gió-o,
chúng tôi mong chị chia sẻ cùng độc giả về quãng đường
đã qua. Chị
mang cái ý tưởng thành lập trang Gió O này từ bao giờ, trước khi chính
thức
trình làng?
Nhưng trước
hết xin hỏi chị, tại sao "gió-o" mà không là một cái tên khác?
Viết
tiếng
Việt, không có dễ. NQT
Thư
gởi nhà văn Nguyễn Quốc Trụ
Thưa nhà
văn,
Trưa nay,
trong chỗ làm việc, tôi có nhận email 1 người bạn, viết "Ông NQT "đập"
ông trên TV. Vào xem chưa?" Xin mở ngoặc rằng: người bạn này, ở TX, tôi
từng
giới thiệu trang Tin Văn từ 2008, và là độc giả thường xuyên của TV từ
đó cho đến
nay.
Tôi email lại,
nói rằng: đang bận, sẽ vào xem, sau khi về nhà.
Tôi vào xem
trang TV và thấy ông chỉ chỗ sai: "chia sẻ" và "chia xẻ"
cũng như gợi ý/đề nghị/khuyên nên viết lại câu hỏi một cách khác, và có
sửa vài
chữ.
Đọc lại lần
nữa, tôi thấy không có gì, đâu có chuyện "đập", "đánh" gì cả,
ở đây. Tôi vừa email người bạn, nói: Đừng
lo. Chỉ là chuyện trao đổi văn chương, chữ nghĩa mà thôi. Và cho biết
sẽ email
cho ông về chuyện này.
Thưa nhà
văn,
1. Tôi cám
ơn, chứ không buồn phiền gì, chuyện người khác chỉ chỗ sai, cần sửa, về
"chia sẻ" và "chia xẻ". Không phải ai cũng chỉ chỗ sai của
người khác, dù được chỉ dưới hình thức nào (thư riêng, trên trang nhà,
hay diễn
đàn công cộng v.v). Với tôi, cái cần phải sửa, thì nên sửa.
2. Ông viết
"-Cái câu cuối, phải để lên trên, nếu không độc giả sẽ gặp lúng túng,
khi
đọc,". Tôi copy nguyên con, từ dấu gạch đầu hàng cho tới dấu phẩy ở
cuối
câu.
Lúng túng,
theo Đại từ điển Tiếng Việt (1998): bối rối, mất bình tĩnh, thiếu chủ
động
không biết xử lý sao cho hợp. Tôi không
hiểu tại sao người đọc lại "lúng túng" khi đọc câu: " Chào chị
Lê Thị Huệ. Nhân 10 năm kỷ niệm gió-o,
chúng tôi mong chị chia xẻ cùng độc giả về quãng đường đi qua. Nhưng
trước
tiên, xin chị cho biết: tại sao "gió-o" mà không là cái tên khác? Và
chị mang cái ý tưởng này bao lâu, trước khi chính thức trình làng?"
Tại sao người
đọc lại mất bình tĩnh, thiếu chủ động, v.v và v.v. ? Tôi thực sự không
hiểu ý
ông nên không dám tự tiện diễn giải để mà trả lời.
3. Ông đề
nghị/ khuyên nên viết câu trên như thế này:
" Nhân
kỷ niệm 10 năm gió-o, chúng tôi mong chị chia sẻ cùng độc giả về quãng
đường đã
qua. Chị mang cái ý tưởng thành lập trang Gió O này từ bao giờ, trước
khi chính
thức trình làng?
Nhưng trước
hết xin hỏi chị, tại sao "gió-o" mà không là một cái tên khác?"
Thưa ông,
trước hết, lời khuyên của ông, đảo lộn câu hỏi, nó không diễn dịch đúng
điều
tôi muốn nói. Thứ hai "bao lâu"
và "bao giờ" mang hai nghĩa
khác nhau. Không thể thay thế được trong trường hợp này. Câu và chữ mà
ông
khuyên sửa, diễn dịch khác ý tôi.
Bao lâu: chỉ
một khoảng thời gian, một độ dài thời gian. Chẳng hạn: 1 tuần, 10
tháng, 3 năm
v.v.
Bao giờ: chỉ
một điểm thời gian nhất định. Chẳng hạn: lúc 7 giờ 10 phút, vào tháng
4, vào
năm 1999 v.v.
Thí dụ:
“Anh đợi tôi
đã bao lâu?" và "Anh đợi tôi từ bao giờ?". Khác nhau chứ.
“Ông Trụ ông
đã ở Canada bao lâu rồi?" và "Ông Trụ, ông đến Canada từ bao giờ?".
Trả lời của 2 câu này cũng không hề giống nhau.
Tương tự,
câu của tôi: "Chị mang ý tưởng thành lập trang gió-o bao lâu, trước khi
chính thức trình làng?" khác với của ông: "Chị mang cái ý tưởng thành
lập trang Gió O này từ bao giờ, trước khi chính thức trình làng?"
Một câu hỏi
về chiều dài của thời gian ấp ủ trước khi thành lập trang gió-o, một
câu hỏi về
thời điểm mà tác giả mang ý tưởng thành lập nó.
Tôi cám ơn nhã ý của ông, nhưng xin được giữ cái của
tôi.
Như một sự
công bằng, tôi đề nghị ông đăng nguyên lá thư này sau phần ông khuyên
(hay đề
nghị) sửa câu hỏi phỏng vấn của tôi, để độc giả có cái nhìn hai chiều.
Chúc ông nhiều
sức khỏe.
Đoàn Nhã Văn
Phúc
đáp:
Câu hỏi của bạn, gồm hai câu hỏi, theo tôi.
Câu hỏi thứ nhất: Sự ra đời của trang Gió O.
Câu hỏi thứ nhì: Cái tên Gió O.
Như
vậy, câu văn chót của bạn, phải đi liền với câu hỏi thứ nhất. Nếu bạn
để ở cuối,
thì độc giả sẽ “lúng túng”, bởi vì “cái ý tưởng bao lâu”, là nói về
trang
gió-o, đâu phải về cái tên gió-o?
Còn "bao lâu/bao giờ"...: Theo tôi, từ nào cũng được hết, ở trong câu
hỏi này, vì không thực sự quan trọng.
Thân.
NQT
TB: Khi tôi
lập lại câu của bạn, theo trật tự, của tôi, tôi sơ ý, đã thay “bao
lâu”, bằng “bao giờ”.
Đọc cái mail của bạn, thì lại nảy ra vấn đề.
Cái từ “bao
giờ”, 1 cách nào đó, liên quan tới biến cố 30 Tháng Tư!
“Bao lâu”, là
chỉ nói đến sự ấp ủ 1 ý muốn, 1 ước mong, chờ cơ hội thực hiện.
Còn bao giờ,
thì lại muốn nói đến thời điểm nào, bạn có ước mong đó.
Đây là ý của
Auden, đại khái, một nhà thơ có thể tự hỏi,
tại sao
mình làm thơ vào lúc sáu mươi tư tuổi, thí dụ, nhưng không bao giờ, vào
năm
1940, vẫn thí dụ.
Thành
thử, nếu dùng từ ‘bao giờ’, thì liên quan đến lịch sử, đến cuộc bỏ chạy
tán loạn.
Nếu
dùng “bao lâu”, thì lại liên quan tới giấc mộng ấp ủ, thành lập trang
gió o, và
khi nào thì thực hiện được.
Có
khác thật!
NQT
1.
Đoàn Nhã Văn: Chào chị Lê Thị Huệ.
Nhân 10 năm kỷ niệm gió-o, chúng tôi mong chị
chia xẻ cùng độc giả về quãng đường đi qua. Nhưng trước tiên, xin chị
cho biết:
tại sao "gió-o" mà không là cái tên khác? Và chị mang cái
ý tưởng này bao lâu, trước khi chính thức
trình làng?
Note: Câu văn
trên, nên sửa lại.
-Chia sẻ, không
phải chia xẻ.
-Cái câu cuối,
phải để lên trên, nếu không độc giả sẽ gặp lúng túng, khi đọc,
Câu viết lại, chí ít,
nó như thế này:
Nhân kỷ niệm 10 năm gió-o,
chúng tôi mong chị chia sẻ cùng độc giả về quãng đường
đã qua. Chị
mang cái ý tưởng thành lập trang Gió O này từ bao giờ, trước khi chính
thức
trình làng?
Nhưng trước
hết xin hỏi chị, tại sao "gió-o" mà không là một cái tên khác?
Viết
tiếng
Việt, không có dễ. NQT
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền
nong và
chính trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ
lập ra,
ca mấy người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời.
Nhắm tít
mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy.
LTH
Quả
là bạo ngôn!
Và,
Quả
có Do Thái dính vô mấy giải thưởng Nobel được bà Huệ viện ra, nhưng
không phải mafia, mà là 6 triệu người Do Thái bị Nazi đưa vô Lò
Thiêu.
Khi
trao những Nobel văn chương trên, một cách nào đó, Uỷ Ban Nobel đã nhân
danh toàn nhân loại sám hối
tội ác Lò Thiêu.
Đấy là nói về mặt tinh thần tác phẩm.
Còn
về văn tài, thì phải từ từ giãi bày sau. Bởi vì, nếu không phải là
những tác phẩm
văn học có giá trị, thì làm sao được Nobel?
Nhắm
tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia
văn
chương ấy.
OK!
Mít nhắm tít mắt dịch dọt…
Nhưng
không lẽ Tây mũi lõ, thí dụ, cũng nhắm tít mắt…?
Trên TV, Gấu
đã hơn một lần, bạo miệng hơn cả bạo miệng, dõng dạc phán, chỉ vài năm
gần đây,
Nobel văn chương mới thực sự là Nobel văn chương, vì cho đúng người,
đúng tinh
thần của người đặt ra giải thưởng, cũng 1 thứ Đại Ác, vì phát minh ra
võ khí giết
người, là thuốc nổ TNT. Giải Nobel văn chương, bản chất của nó, như
thế, là 1
giải thưởng mang tính sám hối.
Điều kiện “cần”,
mấy tay mà bà Huệ nêu ra, và bịt mũi: đáng được.
Điều kiện “đủ”: liệu có tí
văn chương nào trong đó không?
Sự thực, không
phải chỉ có một bà Huệ, bịt mũi, dù có thể, chưa đọc, văn của mấy người
được
Nobel nói trên. Ngay mấy ông Hàn cũng choảng nhau vì họ, và có ông bỏ
job.
Cái
sự không đọc được họ, đúng ra phải nói, không chịu nổi họ, chính là do
nhân loại
chỉ ưa nịnh. Nobel từ trước đến giờ, chiều theo cái thói này, chỉ
khen những
thành tựu của nhân loại.
Tinh thần Nobel sau này, ngược hẳn lại, và cái nền của
nó, là từ câu phán khủng khiếp của Walter Benjamin, theo Gấu: Mọi tác
phẩm về văn
minh đều
là 1 tác phẩm về dã man.
Dưới nền một đại tác phẩm, là 1 đống kít của nhân loại.
Gần nhất: Cái nền của Chuyện Kể Năm 2000
của BNT là Lò Cải Tạo, là Cái Ác Bắc Kít, là Cuộc Nồi Da Sáo Thịt, là,
là, là….
Cái sự đọc lầm,
hiểu lầm này, cũng đã từng xẩy ra nhiều lần trong lịch sử văn học, mà
một trong
những trường hợp tiêu biểu, là cách đọc “không bịt mũi” Nhật Ký Anne
Frank, mà
Cynthia Ozick đã lôi nhân loại ra để mà sỉ vả, trong bài Ai sở hữu Anne Frank ?,
trên TV đã từng giới thiệu:
Nhật ký được
coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan trọng cần nói, là nó không
phải như
vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những vòng hoa, đại khái "ca
khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của
con người". Có một sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật
ký
chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp:
Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan, nơi những người Do thái
Hòa-lan bị
tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của
Bergen-Belsen.
Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà
chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột
con số,
những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết
tay của
những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank
đã được
chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn
mười chín
"sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một
người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15,
thoát, có lẽ
để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6
ngàn người,
chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang
hướng về
Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng
ngạt, và
phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong
chuyến đi tử
thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười,
hoặc 2
tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau
đó, vỡ
tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách.
Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm,
của Elie Wiesel, hay Những Kẻ Chết
Đuối và
Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ nhắc tới hai chứng
nhân), hay những
cột con số, những chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng
là tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin
được! Những
ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị
huỷ
diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm
và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến
thắng,
của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can
đảm, nó
cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di
chúc lâu
dài của nó.
Tưởng Niệm Anne Frank
Một chị, một
em
“Ở mãi dưới tít
sâu, người trẻ cô đơn hơn người già”
"Tôi đọc điều
này, ở trong một cuốn sách, và nó gây ấn tượng ở trong tâm trí của tôi.
Như tôi
hiểu được cho tới giờ này để mà nói ra, thì điều đó thực."
Sat, July 15,1944
Sau
cùng, có thể nói, Anne Frank biểu tượng hóa quyền uy, của chỉ một cuốn
sách. Do
cuốn nhật ký mà cô giữ và viết, từ 1942 đến 1944, cô trở thành một hình
tượng
đáng nhớ nhất, bật ra từ cuộc thế chiến thứ hai – ngoài Hitler ra, tất
nhiên,
người lèm bèm [proclaimed] về cuộc đời, và những niềm tin của mình, ở
trong một
cuốn sách. ['Mein
Kampf"]
Một cách nào đó, có thể coi
Lò Thiêu bắt đầu bằng cuốn sách [Mein Kamf] và chấm dứt
bằng
một cuốn sách khác ["Nhật Ký Anne Frank"]. Tuy nhiên, chính là cuốn của
Anne Frank, sau cùng
đã vượt
lên - một tác phẩm của sự từ tâm, rắc rối, đa đoan sống dai hơn một tác
phẩm
đơn giản và độc ác - và đưa được đứa bé thứ nhì (1) nổi tiếng nhất
trong
lịch sử,
vào vòng tay của thế giới.
*
(1)
Đứa
bé
thứ nhất, là Chúa Giê Su
From:
To:
CC:
Subject: Re: Help
Date: Sat, 05 Jan 2008 16:50:15 -0500
Dung roi,
Chua Giesu Hai Dong, l'enfant Jesus.
----- Original Message -----
From:
To:
Cc:
Sent: Saturday, January 05, 2008 4:21 PM
Subject: Help
Nhưng Hồng
Quân đang hướng về Auschwitz, và vào tháng Chạp, lệnh đưa ra, giấu biệt
tất cả
những chứng cớ về phòng hơi độc, và phá huỷ lò thiêu. Hàng ngàn con
người, những
thây ma kiệt quệ bị lùa ra ngoài, di tản, trong cuộc đi tử thần. Rất
nhiều người
bị bắn. Cuộc di tản xẩy ra vào ngày 28 tháng Tháng Mười hoặc 2 Tháng 11.
Anne và
Margot được đưa đi tới trại Bergen-Belsen. Margot, cô chị, quỵ trước.
Một người
sống sót kể lại, thấy cô gái té xuống, nằm chết, và làm mồi cho lũ rận,
chấy.
Còn Anne, vỡ tim, gầy trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách, chết
một, hay
hai ngày sau đó.
Ozick: Ai sở
hữu Anne Frank?
Thật ra, lỗi
là do chủ biên Lê Thị Huệ khi làm phần kỹ thuật, cắt nguyên con bảng
html từ một
đoạn cũ nào đó, đã quên sửa chữ “tiểu thuyết”. Ông
Nguyễn Quốc Trụ tố ông Đào Trung Đạo
trên trang blog của ông nhiều lần. Mấy lần là do
lỗi của chủ biên.
Mr. Đào Trung Đạo vô can.
Gió O
DTD, tác giả,
GNV, độc giả, đọc bài ông ta viết, có quyền có ý kiến khen chê, sao lại
gọi là
"tố"?
"Tố”, là DTD, khi tố đám Miền Nam, tố Nguyễn Văn Trung, trong một bài
viết
trên
talawas.
NVT có thể
là Thầy của DTD. Bởi vì DTD học Văn
Khoa, vào đúng thời kỳ NVT làm Khoa Trưởng.
Tố ở đâu
không tố, nhè talawas mà tố, không bậy sao?
.... trên trang blog của ông nhiều
lần.
TV, sự thực
không phải là blog!
Blog, mới có
đây thôi, trong khi TV có mặt trên net, cho tới nay, là trên 10 niên,
thọ nhất trong số
những
trang văn học trên lưới, vì phải kể cả thời gian tá túc tại VHNT của
PCL, 1998.
Gấu nhớ rõ, vì Gấu qua
Cali ra mắt sách Lần Cuối Sài Gòn,
1998. Gặp NMG, đề
nghị
giới thiệu Steiner trên VH, ông lắc đầu.
Trước khi đi, Gấu cũng đã nghi rồi, và cố tình
làm quen Hợp Lưu, bằng cách
gửi bài dịch Nhà Văn và Chủ Nghĩa CS,
của
Steiner.
Tính trong đầu, nếu mi đăng, là phải cho vợ chồng ta tá túc, những ngày
ở
Cali!
Anh đăng thật, [Tks. NQT]
và mời vợ chồng Gấu tới ở nhà anh [Tks. NQT].
Nhưng ông bạn Khế Iêm, tạp chí Thơ
lại giới thiệu
1 ông bạn, độc thân.
Gấu ở nhà “mobile home” của ông bạn này một đêm, sáng hôm
sau, NMG đề nghị về nhà anh ở, cho tiện, và cũng để gặp gỡ cả nhóm VH.
Về lại
Canada, Gấu làm quen PCL. Và trang TV sau đó ra đời.
Blog dù thế
nào thì vẫn phải phụ thuộc cái thằng server cho bạn sử dụng free,
nhưng
bù lại, bạn phải chịu một số điều kiện của nó.
Trang TV không chịu 1 điều kiện
của ai, làm sao coi là blog được?
Đâu phải Gấu
mê văn thơ, mê viết đến độ mở blog?
Trang TV đâu phải mở ra để viết văn, làm thơ,
hay làm chủ quán đóng vai người khám phá thiên tài thi ca, như Gió O của bà Huệ,
thí dụ?
Gấu đâu phải
là cớm văn nghệ, mà tố Đào quân? Tố cái gì chứ?
Ông ta viết
dở, thì chê, dịch sai, viết câu tiếng Việt không nên thân, lòng dạ đố
kỵ, có cái
bằng cử nhân Triết của Văn Khoa Sài Gòn, lên mặt chê người khác không
phải dân
khoa bảng, tố bạn thân, đồng nghiệp, là HPA chưa có trình luận án, tố
với ai, nhè
SCN, một em Bắc Kít, mà tố, dân trong nghề gọi là “mét bu, mét má"!
*
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền
nong và
chính trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ
lập ra,
ca mấy người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời.
Nhắm tít
mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy.
LTH
Quả
là bạo ngôn!
Và,
Quả
có Do Thái dính vô mấy giải thưởng Nobel được bà Huệ viện ra, nhưng
không phải mafia, mà là 6 triệu người Do Thái bị Nazi đưa vô Lò
Thiêu.
Khi
trao những Nobel văn chương trên, một cách nào đó, Uỷ Ban Nobel đã nhân
danh toàn nhân loại sám hối
tội ác Lò Thiêu.
Đấy là nói về mặt tinh thần tác phẩm.
Còn
về văn tài, thì phải từ từ giãi bày sau. Bởi vì, nếu không phải là
những tác phẩm
văn học có giá trị, thì làm sao được Nobel?
Nhắm
tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia
văn
chương ấy.
OK!
Mít nhắm tít mắt dịch dọt…
Nhưng
không lẽ Tây mũi lõ, thí dụ, cũng nhắm tít mắt…?
Trên TV, Gấu
đã hơn một lần, bạo miệng hơn cả bạo miệng, dõng dạc phán, chỉ vài năm
gần đây,
Nobel văn chương mới thực sự là Nobel văn chương, vì
cho đúng người, đúng tinh thần của người đặt
ra giải thưởng, cũng 1 thứ Đại Ác, vì phát minh ra võ khí giết người,
là thuốc
nổ TNT. Giải Noebl văn chương, bản chất của nó, như thế, là 1 giải
thưởng mang
tính sám hối.
Điều kiện “cần”, mấy tay mà bà Huệ nêu ra, và bịt mũi, đáng
được.
Điều kiện “đủ”, là, liệu
có tí văn chương nào trong đó không?
Thật ra, lỗi là do
chủ biên Lê Thị Huệ khi làm
phần kỹ thuật, cắt nguyên con bảng html từ một đoạn cũ nào đó, đã quên
sửa chữ
“tiểu thuyết”. Ông
Nguyễn Quốc Trụ tố ông Đào Trung Đạo
trên trang blog của ông nhiều lần. Mấy lần là do lỗi của chủ biên. Mr.
Đào
Trung Đạo vô can.
*
Phúc đáp: Những tố
“nhiều lần”, của NQT, là do
những sai sót của DTD, không liên can đến con người DTD. Những lỗi đó,
như LTH
bây giờ cho biết, là do chủ biên, như vậy tại sao để đến bây giờ mói
nói ra?
Lỗi, có người chỉ ra,
là phải có 1 đáp ứng nào
đó. Còn vờ, thì vờ luôn, khỏi thanh minh, thanh nga.
Riêng về Đào quân, đã
từng viết trên talawas,
là Gấu đâu phải dân khoa bảng.
Một người viết như DTD mà nhận xét như vậy
sao?
Trên TV, nhiều lần
“khen” LTH, thì sao?
Băng đảng?
Để ý làm mẹ gì.
NQT
Cái khổ tâm
của văn học hải ngoại, không phải là băng đảng, mà là không có người
viết cho… đường được. Cứ tình trạng này,
10 năm nữa, thì
cũng ‘vũ như cẩn’. Hậu Vệ mỗi ngày có vài bài viết mới post, có bài nào
ra hồn
đâu. Cũng vậy là Da Màu. Trên Gió O, thì lâu lâu có truyện ngắn đọc
được của Hồ
Đình Nghiêm, ngoài những bài có giá trị, nhưng chỉ có tính tài liệu,
của 1 số
tác giả đã thành danh, và đều là những chuyên gia, về 1 vấn đề nào đó.
Riêng bà chủ
biên, có cái sự thẳng thắn, không phe đảng, không có những cú đánh
lén, lòng
dạ không đen tối, không thâm hiểm, như đám còn lại, tuy nhiên, viết
lách thì có
gì ghê gớm đâu, mà hết khoe cho ra đời thiên tài này đến thiên tài khác?
Lời thực mất
lòng. Nhưng không nói ra, thì 10 năm nữa, Gió O vẫn là Gió O của bây
giờ.
Viết thì
chưa ghê gớm, mà chê mafia, băng đảng Do Thái quyết định Nobel, chỉ có
những kẻ
điếc không sợ súng thì mới dám viết ra những lời lẽ như thế này:
Thấy mấy ông
bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer thiên
tài, Imre
Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là những người
Do Thái
khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có thế lực tiền nong và
chính
trị của các nước lớn. Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ lập ra,
ca mấy
người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên trên giời. Nhắm
tít mắt
lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy con mồi của băng đảng mafia văn
chương ấy. Chứ
tài hoa của Joseph Brodsky cũng ngang ngửa cỡ tài hoa Nguyễn Thế Hoàng
Linh
thôi mà.
Viết như thế
làm xấu hổ luôn tất cả các nhà thơ Việt Nam, không riêng gì NTHL,
nếu họ còn
chút tự trọng.
Tay DNV này,
có đề nghị Gấu trả lời phỏng vấn, Gấu lắc đầu, hỏi ông ta coi, có đúng
không.
NQT
Thực sự có lúc, Gấu cũng
đã tính nhận lời, nhưng anh ta nói, dư luận có vẻ
nực NQT,
vì chê hết người này tới người khác, thế là G vờ luôn.
Gấu nghĩ,
anh ta cần 1 bài phỏng vấn có tính văn học, về tình trạng văn học Mít
vv…
Còn phần Gấu, thì đâu cần gì, phải trả lời những kẻ nực Gấu?
Cái khó của
phỏng vấn, là cái tay hỏi cũng phải bảnh, biết tránh cho người được hỏi
khỏi bị
sa vào trường hợp tự chui vô cái thòng lọng, do chính mình giương ra
cho mình
chui vào.
Đọc mấy câu trả lời của LTH, là thấy.
Cả 1 bài phỏng vấn đi mấy kỳ, mà toàn chuyện nhảm nhí. NQT
TV nhắc tới Đào
quân nhiều lần, vì ông ta viết dở quá, tiếng Anh tiếng U cũng dở, đâu
phải chỉ
Gấu chê? Viết đã dở, lại còn chê người khác không có bằng cử nhân như
ta, không
phải dân khoa bảng. (1) Đến cái tên tác giả Garcia Marquez mà ông ta
còn
viết trật, viết câu tiếng Việt cũng không câu
nào cho ra
hồn, lý do là không mê viết, chỉ muốn làm Thầy thiên hạ.
Khoe khoang,
viết văn từ hồi Sáng Tạo, ra hải ngoại cũng “nhanh chân lẹ tay” lắm,
đến bây giờ
vẫn trắng tay, vậy mà tố hết người này người nọ với Sến Cô Nương, coi
được không?
Thử đọc bài viết được
bà Huệ link, coi có đúng không?
Có vẻ như bà
Huệ rất bực vì thiên hạ [ở đây là VOA, BBC, thí dụ] không thèm nhắc tới
Gió O.
Sao lại bực cơ chứ, chúng băng đảng, chúng chỉ nhắc tới chúng, những
đấng Bắc Kít
làm bồi cho đám Hồng Mao, dốt cực dốt, quần đảo biến thành bán đảo
Gulag, chỉ
chờ SCN hắt hơi xổ mũi là vội vàng vấn an, không lẽ bà Huệ cũng mong
được nhắc
tới?
DTD, tác giả,
GNV, độc giả, đọc bài ông ta viết, có quyền có ý kiến khen chê, sao lại
gọi là
"tố"?
“Tố”, chính là
DTD, khi tố đám Miền Nam, tố Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết trên
talawas (1)
NVT có thể
là Thầy của DTD. Bởi vì DTD học Văn
Khoa, vào đúng thời kỳ NVT làm Khoa Trưởng.
Tố ở đâu
không tố, nhè talawas mà tố, không bậy sao?
(1)
Trong số những
người Nguyễn Văn Lục nêu tên ở trên có lẽ chỉ có Ðặng Phùng Quân trình
luận án
về “Hiện hữu tha nhân trong triết lý Gabriel Marcel” còn Huỳnh Phan Anh
chưa
bao giờ trình luận án cao học ngành Triết, Nguyễn Quốc Trụ không phải
thuộc giới
khoa bảng, Trần Nhựt Tân chuyên ngành văn chương Pháp.
Cũng cần
nhắc
lại chuyện hồi đó Mai Thảo có đi một bài của Nguyễn Văn Trung trên Sáng Tạo,
bài Trường Hợp Francoise Sagan, nhưng
sau đó độc giả và anh em trí thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp
chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung đã dịch nguyên con nhưng lại
ký tên
mình là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó Mai Thảo rất “sợ” những bài viết
của những
nhà “nghiên cứu” triết lý hiện sinh.
Nguồn
|
|