|
Dương Thanh
Liêm & Gấu
Nhà Hát
Le
Petit Trianon Theatre, San Jose.
7 tháng Tám
2004
Đêm hòa nhạc
Vinh Danh & Họp Mặt tại Nhà Hát
Le Petit Trianon Theatre, San Jose.
Họp mặt, là
giữa học sinh nhiều thế hệ của trường Âm Nhạc và Kịch Nghệ Quốc Gia,
trụ sở cũ ở
đường Nguyễn Du, Sài Gòn.
Vinh Danh,
những thầy cô. Hiện diện, có cô Đỗ Thế Phiệt, thầy Nghiêm Phú Phi...
Gấu tui có cảm
tưởng sống lại một buổi tối tại Sài Gòn, giữa những bạn bè Quán Chùa
như Nguyễn
Xuân Hoàng, Cao Thanh Tùng, Hoàng Ngọc Biên...
Nhưng những
bạn thân ở đây, của Gấu tui, lại là những người bạn đã từng chia sẻ
những ngày ở
Trại Cấm Thái Lan, như Dương Thanh Liêm, Nguyễn Phước.
Phước, từ Úc
qua. Liêm, từ Tiểu Sài Gòn lên. Đã trên 10 năm chúng tôi mới gặp lại.
Vì họ, mà
tôi tới đây.
Nhờ họ, tôi
quen 'cọp biển' Lương.
Dự định cho
ngày mai, thứ hai: Tới chân cầu Golden Gate, chụp vài cái hình. Thăm
Cựu Kim
Sơn, để hiểu câu hát của tụi Mẽo ngày nào, khi quá chán cuộc chiến Việt
Nam:
Tôi để trái
tim của tôi tại Cựu Kim Sơn.
Giờ chót: Vụ
đi thăm Cựu Kim Sơn bị huỷ bỏ, do không có ai rảnh để mà làm tài xế.
Như vậy là sẽ
lên Tiểu Sài Gòn sáng mai, cùng Liêm.
Bạn Tù Thái
Lan
L'INIMITIÉ
ET L'AMITIÉ
Sự thù ghét và tình
bạn
Một bữa, thời gian, đầu thập
niên 1960, thời
kỳ Liên Xô đô hộ, cả hai bị đuổi khỏi chỗ làm, sức khỏe tồi tệ, vợ
chồng tôi ghé
một bệnh viện ở ngoại ô Prague, thăm một vị bác sĩ, bạn của những kẻ
chống đối,
một vị hiền giả Do Thái, như chúng tôi thường gọi ông, giáo sư Smahel. Ở đó, chúng tôi gặp E.
một ký giả, cũng bị tống
ra khỏi mọi chỗ, cũng sức khoẻ tồi tệ, và cả bốn chúng tôi ngồi lèm bèm
rất lâu, rất là vui vẻ, rất ư là hạnh phúc,
về cái
không khí thân ái giữa chúng tôi.
Khi về, E cho chúng tôi quá giang trên chiếc
xe hơi của anh, và trong khi đi đường, anh nhắc tới Bohumil Hrabal, lúc
đó là nhà
văn tchèque vĩ đại nhất hiện còn sống; văn phong của ông thì là 1 cái
sự kỳ quái
không bờ bến, đầy ắp kinh nghiệm bình dân (tiểu thuyết của ông thì đầy
ắp những
con người rất ư là bình thường), ông được rất nhiều người đọc, và rất
được yêu
mến, (cả một làn sóng mới của nền điện ảnh tchèque ngưỡng mộ ông và coi
ông như
là ông thánh đỡ đầu của họ). Ông thì cực kỳ vô chính trị. Điều này,
tromg một
chế độ ‘tất cả là chính trị‘ thì chẳng ngây thơ, và cũng chẳng ngây ngô
rồi như
đá ! Nói rõ hơn, cái sự vô chính trị của ông chửi bố chế độ, cái
thế giới
nơi những ý thức hệ hoành hành, tác quái. Vì điều này, mà trong một
thời gian
thật là dài, ông thấy ông ở trong tình trạng ‘thất sủng’, đối với Bắc
Bộ Phủ,
thằng cha này không xài được, theo như tin hành lang BBP xì ra, nhưng,
cũng nhờ
vậy mà trong thời kỳ được Bắc Triều [Liên Xô, đúng hơn] đô hộ, ông được
hai chữ
bình an, và bản thân ông cũng chẳng thèm đăng ký vào lực lượng kháng
chiến chống
lại Thiên Triều !
Và thế là trong suốt thời kỳ đô hộ, họ để ông yên thân, và hơn thế nữa,
còn cho ông xuất bản vài cuốn sách.
E phát điên lên vì điều này, và
chửi um lên. Làm
sao mà thằng chả lại chấp nhận cho tụi nó in tác phẩm trong khi cấm
ngặt những
người khác, những bạn văn của thằng chả ? Làm như thế là thằng chả
thông lưng
với chế độ, đúng không ? Chẳng 1 lời phản đối ? Thái độ, cách
ứng xử
của thằng chả thật dễ ghét. Hrabal đúng là tên cớm văn nghệ VC !
Tôi
phản ứng cũng phát điên
lên, chẳng kém ! Sao mà ngu thế không biết ! Thật là phi lý khi nói đến
cớm,
đến cộng tác với chế độ, một khi mà tinh thần của những cuốn sách của
Hrabal
thì đầy ắp chất hài, chất tếu. Sự tưởng tượng ở trong đó ngược hẳn lại
với cái
tinh thần quản lý đất nước của Đảng VC, chỉ muốn bóp nghẹt thở nhân
dân, trong
cái áo quan sức mạnh, quyền lực của nó. Một thế giới mà người ta có thể
đọc
Hrabal thì hoàn toàn khác biệt với cái thế giới mà tiếng nói của ông
như tiếng
dế kêu, cố gắng lắm mới nghe ra được ! Chỉ một cuốn sách của ông thôi
thì đã
mang biết bao điều đến cho mọi người, cho cái tinh thần tự do, hơn biết
bao so
với những cử chỉ những lời nói phản đối, xuống đường, mặc áo thung có
đề chữ
chống Bắc Triều, của tất cả chúng ta.
Cuộc
bàn luận trong chiếc xe
hơi chẳng mấy chốc biến thành một cuộc cãi cọ hằn học.
Sau này
nhìn lại tôi cực ngạc
nhiên về sự hận thù, sát khí đằng đằng, đích thực, ăn miếng trả miếng,
giữa hai
đứa chúng tôi. Và tôi tự bảo với chính mình, cái sự hài hoà giữa hai
đứa tại
nơi vị bác sĩ, chỉ có tính thoáng qua, là do hoàn cảnh lịch sử tạo nên:
cả hai
đều bị bách hại, bị đuổi ra khỏi chỗ làm việc, còn cái chuyện đếch hài
hòa, là
giữa nhiều kẻ chia thành 2 phe; một phe, với họ, cuộc chiến đấu mang
tính chính
trị, thì cao cả, bề thế hơn, hách xì xằng hơn, so với cuộc sống cụ thể,
nghệ
thuật, tư tưởng, trong khi, phe kia, ý nghĩa chính trị thì chỉ là để
phục vụ
cuộc sống cụ thể, nghệ thuật, tư tưởng. Cả hai đều đúng, đều hợp pháp
cả, nhưng
bố ai hòa giải được họ!
Vào mùa
Thu, 1968, trải qua
hai tuần tại Paris, tôi có dịp được trò
chuyện
thoải mái với Aragon,
tại căn phòng của ông, ở con phố Varennes. Không, tôi chẳng có gì đáng
nói mà
phần nhiều là lắng nghe ông. Tôi không bao giờ viết nhật ký, kỷ niệm
những lần
trò chuyện thì mơ hồ, về những nhận xét của ông, tôi chỉ còn giữ lại
được hai
đề tài, trở đi trở lại: ông nói nhiều với tôi về André Breton, cuối
đời, lại
gắn bó lại với ông, và ông nói về nghệ thuật tiểu thuyết. Ngay trong
bài tựa
cho cuốn tiểu thuyết của tôi, Chuyện
Diễu (ông viết 1 tháng trước khi chúng tôi
gặp gỡ), ông ngợi ca nó bằng những lời
như sau: "Con người cần tiểu thuyết như cần bánh mì". Trong những lần
gặp, ông luôn hối thúc tôi phải bảo vệ "nghệ thuật" đó, (thứ nghệ
thuật "bị dèm pha", như ông viết trong lời Tựa; tôi chôm công thức
này làm 1 cái tít trong Nghệ thuật
tiểu thuyết).
Tôi giữ
lại cho mình cái cảm
tưởng, sau những cuộc gặp gỡ, là, cái lý do sâu xa của sự đoạn tuyệt
của ông với
nhóm Siêu Thực, thì không phải chính trị (sự vâng dạ của ông với Đảng
CS) mà là
mỹ học (sự trung thành với tiểu thuyết, nghệ thuật ‘bị dèm pha’ bởi
nhóm Siêu
Thực), và có vẻ như tôi mơ hồ nhận ra thảm kịch kép trong đời ông: đam
mê nghệ thuật tiểu thuyết (có lẽ là mảng chính của thiên tài của ông),
và tình
bạn với Breton (bây giờ thì tôi biết: vào cái thời của sự làm 1 cú
thanh toán,
tính sổ như thế, vết thương đau thương nhất, là của những tình bạn
đổ vỡ, và,
chẳng có gì ngu si khốn kiếp đần độn hơn là hy sinh tình bạn cho chính
trị. Tôi
thật hãnh diện vì đã chưa từng bao giờ làm cái điều ngu ngốc như thế.
Tôi kính
mến Mitterand vì sự trung thành mà ông gìn giữ với những đấng bạn cũ
của ông. Chính
là vì sự trung thành đó mà cuối đời ông bị tấn công thật là tàn nhẫn.
Chính là
sự trung thành đó mà ông mới phong nhã, mới quân tử, mới kẻ cả làm sao!)
Chừng 7 năm, sau những lần gặp
gỡ Aragon,
tôi được quen biết Aimé Césaire mà tôi đã khám phá ra thơ của ông liền
sau khi
chiến tranh chấm dứt, trong bản dịch tiếng Tiệp của 1 tạp chí tiền
phong (cùng
tạp chí nhờ nó mà tôi biết đến Milosz). Đó là tại Paris, trong xưởng vẽ
của
Wifredo Lam; Aimé Césaire, trẻ, sôi động, đẹp trai, dễ mến, đã tấn công
tôi bằng
1 loạt những câu hỏi. Câu rất đầu tiên của ông: “Kundera, ông có quen
biết Nezval
?”. “Biết chứ, lẽ dĩ nhiên, nhưng còn ông, làm sao ông biết ông ta?”
Không, ông không quen, nhưng
Breton nói nhiều về Nezval với ông. Theo những ý nghĩ của riêng tôi, có
thể Breton,
nổi tiếng là 1 người cố chấp, thành ra không thể “nói nhẹ” về người mà vài năm trước đã đoạn tuyệt với nhóm
Siêu Thực Tiệp, để 1 lòng 1 dạ theo Đảng, (giống như Aragon). Nhưng
Césaire lại
nói thêm rằng, khi Breton ở Martinique,
vào năm
1940, ông nói thật thiết tha, thật đáng yêu về Nezval. Điều này thật
cảm động. Còn
điều này nữa, như tôi nhớ thật rõ, Nezval luôn luôn nói thiết tha, đáng
yêu về Breton.
Điều làm tôi cực sốc, trong những
show trình diễn tại Moscow,
về những vụ án lớn do Stalin ra lệnh dàn dựng, đó là sự dửng dưng chấp
nhận sự thủ
tiêu những bạn bè của họ, ở những đấng lãnh đạo CS mới hồi nào còn “toa
moa” với
nhau. Họ đều là bạn của nhau, [ui chao,chẳng khác gì đám Trần Dần,
Hoàng Cầm…].
Họ đều đã từng thân mật tỉ tê với nhau, đã từng trải qua những giai
đoạn, những
thời ký khó khăn, gian khổ, nào sơ tán, nào bách hại, nào chiến đấu dài
về thái
độ chính trị. Làm thế nào mà họ có thể hy sinh tình bạn, và, bằng 1 cái
cách tởm
lợm như thế?
Nhưng,
đó có phải là tình bạn?
Trong
liên hệ giữa con người
có cái mà tiếng Tiệp gọi là «
soudrnzstvi», dịch sang tiếng Mít là tình
bạn giữa những bạn, nhưng Mít VC thì kêu là “tình đồng chí” [l’amitié
des
camarades], được 1 ông thi sĩ VC vinh danh, nào là “áo anh sứt vai,
quần tôi thủng
đáy để lộ chim ra”, nào là “đầu súng trăng treo”…. thứ tình cảm nối kết
những
người cùng 1 cuộc chiến đấu chính trị [cách mạng, chữ của VC]. Một khi
sự dâng
hiến, một lòng một dạ với nghĩa cả, vỡ ra, thì tình bạn cũng biến mất.
Nhưng,
cái tình đồng chí, được
‘chế ngự’ bởi cái gọi là tình cảm cách mạng đó, chẳng mắc mớ gì đến
tình bạn, có
từ khi có con người, trước khi có VC!
Vào cái
thời của chúng ta,
con người học được điều, đặt tình bạn dưới nghĩa cả. Và còn hãnh diện
về điều này
nữa chứ! Nhảm thế đấy. Phải rất trưởng thành thì mới hiểu được cái quan
điểm mà
chúng ta chiến đấu, bảo vệ nó, thì chỉ là 1 thứ giả thuyết, đương nhiên
là không
hoàn hảo, và có thể, chỉ có tính nhất thời, giai đoạn, may ra, hay,
khốn nạn
ra, chỉ 1 dúm người coi nó là chân lý. Thứ tình đồng chí đó làm sao là
tình bạn
được, bởi tình bạn là 1 đức hạnh, có lẽ cái đức hạnh cuối cùng, cái độc
nhất còn
lại, của con người.
Tôi
nhìn bức hình nhà thơ René
Char đứng bên Heidegger. Một, được ngợi ca như là 1 nhà kháng
chiến Pháp, chống lại sự đô hộ, xâm lăng của Nazi. Một, bị
coi là cảm tình viên của Nazi, ở 1 quãng đời đầu đời suy tư của ông.
Bức hình
cho thấy được chụp thời kỳ sau chiến tranh. Chúng ta nhìn hai ông từ
phía sau lưng,
1, cao, 1, lùn, cả hai tay cầm mũ, từ phía bên trong, bước ra ngoài
trời. Tôi rất
mê bức hình này.
*
Note: Bức hình mà K. mê đó,
GNV có cả đống!
Thí dụ:
Nhưng không thú bằng cái
này,
cuộc gặp gỡ “Thượng Đỉnh”
giữa VC và GNV:

Day |
Number of visits |
Pages |
Hits |
Bandwidth |
01 May 2012 |
363 |
4,083 |
5,893 |
252.08 MB |
02 May 2012 |
210 |
1,683 |
3,544 |
202.82 MB |
03 May 2012 |
205 |
1,761 |
3,619 |
205.05 MB |
04 May 2012 |
203 |
409 |
2,042 |
150.61 MB |
05 May 2012 |
198 |
387 |
1,381 |
93.62 MB |
06 May 2012 |
316 |
508 |
1,555 |
95.36 MB |
07 May 2012 |
316 |
591 |
2,186 |
149.28 MB |
08 May 2012 |
260 |
737 |
2,000 |
118.35 MB |
09 May 2012 |
213 |
994 |
3,082 |
163.42 MB |
10 May 2012 |
337 |
548 |
3,130 |
278.62 MB |
11 May 2012 |
548 |
3,144 |
7,450 |
444.37 MB |
12 May 2012 |
351 |
923 |
3,951 |
183.75 MB |
13 May 2012 |
321 |
574 |
2,655 |
154.14 MB |
14 May 2012 |
936 |
2,061 |
6,315 |
355.06 MB |
Con số visitors,
bữa nay, giờ này, 11:55 PM local time, là 936!
Terrible!
Tks.
NQT
Con số chính
thức: 979.
Đỉnh của đỉnh!
Tks again.
NQT
Nhớ không
Thuần cánh cửa sổ
nhìn xuống
con phố quận 13 Paris
mưa lầy lội
mưa ướt thảm lá vàng mùa thu
đêm khuya đi
chuyến métro về Porte d’ Ivry
những chuyến
métro chưa quen
tiếng kèn buồn
của người đàn ông
như đến từ
các xứ Bắc Phi
nghe như ngọn
gió thổi buốt trên sa mạc
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ
khu chung cư
ấy đêm về mở ra
bạn đứng phà
hơi thuốc nhớ Nhã Hương
kêu điện thoại
khó khăn bấm số thẻ dài dòng
có đêm nấu
hai tô mì gói ghé mua ở chợ Tàu
thấy ngon,
thêm mấy lon bia Heineken
bạn ưng uống
bia hơn chát đỏ
Lê Tài Điển
thì điểm tâm đã một chai La Fleur Pauillac…
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ ấy
nhìn xuống
con đường mưa
Paris gió lạnh,
chiều lang thang trên đồi Montmartre
Place du
Tertre như thấy lại mình trên đường bay nét cọ
chân dung
thiếu nữ qua mấy nét chì than
ghé quán ngồi,
Lê tài Điển nói đã ngồi đó với Ngọc Dũng
chúng ta còn
đứng trên cầu Mirabeau
nhìn sông
Seine mà nhớ sông Hương
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ ấy
khu chung cư
ấy ở quận 13 chúng ta đã ở
những đêm ngồi
cùng bạn bè ở quán Monge về
bây giờ quán
Monge đã đóng cửa
Paris và những
chuyến métro chưa quen
tình bạn ấm
cúng ở đó, làm sao chúng ta không trở lại … (1)
Virginia, 10
May 2012
Đinh Cường
Note: Cái
quán thuốc lá, chủ quán, cũng có nhiều chuyện lý thú lắm.
Thêm bài thơ
sau đây. Những nhà thờ của xứ Tẩy

Thiền Sư
TTM, chủ quán thuốc lá, ngày nào với cái tên Lucky,
thay vì như bây giờ
Quà &
Thuốc
THE CHURCHES
OF FRANCE
For Czeslaw
Milosz
The churches
of France, more welcoming than its inns and its poems,
Standing in vines like
great clusters of grapes, or meekly, on hilltops,
Or drowned
in valleys, on the floor of a green sea, in a dry
landscape,
Abandoned
buildings, deserted barns
Of gray
stone, among gray houses, within gray villages,
But inside pink or white or
painted by the sun coming through
stained glass.
Little
Romanesque shrines with stocky frames, like craftsmen shaped
by their labor,
Pascal's
invisible church, sewn into canvas,
And slim cathedrals like herons above the
cities, seen clearly from
the highway,
the loveliest is in Chartres,
Where stone
stifles desire.
The mills of the Cistercians, turning water in Sunday streams,
and
their ponds,
Synagogues, elder sisters, betrayed and plundered so often, discreet,
The
ruined abbey in Normandy, where among the raspberry
bushes a
black adder basks in the heat,
A small
tree, growing on the roof of a village church, a young ash
that will become a
monk,
The basilica
in Vezelay, belonging to Magdalene, pink as a wild
strawberry's mouth.
Claudel's
church, thickset, almost neckless, inspired, sometimes
full of spite
And the
church in Tournus, whose arches must make the Arabs
proud too,
The moss-covered
walls of modest chapels that have forgotten
their names
And
the fortified basilica in Albi, a masterwork of military art,
sheathed in a
dragon's skin,
And in the square the peddlers of nuts, holy pictures, and
aniseed
cakes.
But at night
the peddlers vanish and only walls and windows,
blind as kittens, remain,
And the vast
night and much silence and sometimes a dying
comet's
roar.
Romanesque
columns in cloisters, as if carved by brilliant children.
Meadows,
where lovers meet.
The stone
Jeremiah in Moissac, with a kind face.
The church
of Maurice, who learned my language and lives in
Warsaw among
the poorest.
The churches
of France, dark vessels, where the shy flame of a
mighty light
wanders.
Adam
Zagajewski
Phan Tấn Hải
Bùi Vĩnh
Phúc, Cao Bá Minh, Cao Xuân Huy, Châu Văn Thọ, Đỗ KH, Đỗ Ngọc Yến,
Hoàng Khởi
Phong, Hoàng Phủ Cương, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Hồ Minh Dũng,
Khánh Trường,
Khế Iêm, Khiêm Lê Trung, Lâm Chương, Lê Bi, Lê Thứ, Lê Thị Thấm Vân, Lê
Thọ
Giáo, Lưu Nguyễn, Lưu Hy Lạc, Luân Hoán, Mai Kim Ngọc, Mai Ninh, Nguyễn
Đăng
Thường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đình
Thuần,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung,
Nguyễn Quí Đức,
Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Văn Sâm, Nhã Ca, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân
Hoàng,
Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Trần, Phạm Phú Minh, Phạm Việt
Cường,
Phan Thị Trọng Tuyến, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Tạ Chí Đại Trường,
Thân Trọng
Mẫn, Thảo Trường, Thường Quán, Trầm Phục Khắc, Trân Sa, Trần Dạ Từ,
Trần Doãn
Nho, Trần Vũ, Trịnh Y Thư, Trúc Chi, Triều Hoa Đại, Trương Vũ, Tưởng
Năng Tiến,
Tường Vũ Anh Thy, Vũ Huy Quang.
Trên đây là danh sách
những nhà văn Mít hải ngoại ký tên vô cái thư gửi cho me-xừ
Grass, đề nghị can thiệp cho vợ chồng nhà văn nhà thơ ra đi từ miền
Bắc, và có
ý chọn Đức làm quê hương thứ hai của họ, nhưng bị bác đơn. (1)
Danh sách
trên, do thiền sư TTM phịa ra.
GCC đoán thế, bởi là vì có lần gặp BVP, nhắc tới nó, nhà phê bình ngạc
nhiên,
danh sách nào, và khi vỡ ra, anh cười, chắc là thiền sư nhớ ra tên ai
là nhét
vô, chứ cũng chẳng cần gọi điện thoại.
Lần đó, GCC
gửi lá thư ngỏ cho Grass tới Việt
Báo online, và thiền sư Phan Tấn Hải bèn "đi" liền, cùng
lúc order Thân Trọng Mẫn lên cái danh sách như trên.
Thân Trọng Mẫn
có ông anh ruột, là Thân Trọng Hinh, kỹ sư Bưu Điện,1 trong những ông
thầy của
GCC, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện. Kỹ sư thật, học ở Tây về, nhưng
thực sự
chẳng biết tí kỹ thuật; không chỉ ông, mà đa số như vậy. Sau Bưu Điện
đành sử dụng
ông vào chức Trùm Bảo Vệ Cơ Sở, và vì thế, những ngày nhốn nháo, hoảng
loạn trước 30 Tháng Tư 1975, ông nhận được thư của đám
VC nằm vùng, báo cho biết, ông có tên trong danh sách được làm thịt!
Hình như bạn
ta, nhà thơ Du Tử… Cà [Lê không phải, Táo cũng không, thì Cà vậy, Cà
Chớn!],
thời gian đó, cũng nhận được “Lệnh Xé Xác” của VC?
Hà, hà!
Lần về Hà Nội,
gặp Nguyên Đầu Bạc, anh cho biết, là người đầu tiên đọc lá thư, bèn lập
tức copy
1 bản, đi một đường tới nhà của ông cụ/bà cụ của vị được nhắc tới.
Anh cũng đưa
Gấu tới nhà hỏi thăm, và được mời ở lại ăn cơm, món Bắc Kít.
Dầu có muốn
hay không, thì vẫn phải thừa nhận, Du Tử Lê là một tên tuổi. Tôi thích
đọc Du Tử
Lê, những bài thơ mang đậm nét đèn vàng phố thị hay hiu hắt tóc xanh.
Hầu như
trong giới viết lách ở Sài Gòn, ít nhiều đều thuộc vài câu thơ của Du
Tử Lê. Thế
nên, khi nghe nhà văn, nhà báo Đoàn Thạch Hãn buột miệng nói: “Tôi với
Lê thân
lắm”, thì tôi vội vã gửi lời nhờ: “Khi nào chú Lê có dịp về lại Việt
Nam, chú
cho con gặp với”.
Hạnh ngộ, chỉ có
bấy nhiêu.
Dầu có muốn
hay không thì vẫn phải thừa nhận…
Đúng là chơi với… cớm, cớm
liếm mặt!
“Tôi với Lê thân
lắm”: Câu này phải để đao phủ HPNT nói mới phải, bởi vì bạn ta đã từng
tự động
gõ cửa.. Trùm Địa Ngục Mậu Thân!
Bất giác GCC
nhớ đến Le Carré và lần đầu viếng Moscow khi Liên Xô đổi mới. Lần đó,
tay tùy
viên văn hóa sứ quán Liên Xô còn phải sửng
sốt, ông mà cũng được phép viếng thăm Moscow thì… ai cũng dược phép
hết.
Le
Carré là tác giả chuyên trị điệp viên Liên Xô.
Nhưng khi Liên Xô hỏi, ông
có muốn làm 1
cuộc hỏi thăm, pay a visit, Kim Philby, tay điệp viên
Hồng Mao làm cớm chìm, khi bị lộ bỏ chạy qua Moscow bằng ngả những
đường cống bên dưới thành phố Vienne, như được dựng lại trong phim
phỏng theo tiểu thuyết Người Thứ Ba
của Greene, Le
Carré bèn sửng cồ, bữa trước nước Nga đón tôi như là người thay mặt nữ
hoàng
Anh, bữa nay, các ông đề nghị tôi đi gặp tên khốn kiếp kẻ thù của
nữ hoàng,
sao các ông bỉ mặt tôi thế!
Lạ, là
Brodsky cũng rất tởm cớm. Nhất là thứ cớm hai mang.
Thi sĩ đã từng kể, lần ông thò tay vô túi tính lôi ra mấy đồng bạc cắc,
chân tiến tới sạp báo, và, khi thấy hình Kim Philby trên tờ báo, thì
bèn từ từ rút
tay ra khỏi túi,
mắt nháy nháy ông chủ sạp, ra ý, thông cảm, chân bước lui.
Cũng lạ, là bạn
ta về, toàn là để gặp cớm, đao phủ!
"Tôi thân với
Lê lắm"!
Chưa từng thấy
bạn ta về gặp… Dương Nghiễm Mậu, thí dụ?
Hay là DNM đếch thèm tiếp?
Câu hỏi lớn
đấy nhé! [Thuổng NVL, cựu vệ sĩ của DN, chủ báo SGN]
Kim Philby là sư phụ của... Graham Greene.
Khi ghé Liên
Xô, đệ tử có gặp Thầy, và Thầy đưa tay giao hẹn, cấm nói chuyện chính
trị. Đệ tử bèn vâng dạ, và thưa," Thưa Thầy, em chỉ tính hỏi
Thầy, tiếng Nga của Thầy tới đâu rồi!"
Cái vụ đi thăm
Liên Xô của Greene cũng lý thú lắm. Theo Martin Amis, Greene thèm đi
Moscow quá,
bèn xin vô Đảng CS, và phần thưởng, là chuyến tham quan cái nôi của
Cách Mạng vô
sản.
Có 1 lần GCC
qua Cali, đâu cả tháng, hoặc hơn, túi thì không tiền, ở nhà NCK, anh
đưa cho
chiếc chìa khoá, tự động đi về, DTL biết, Gấu đói, mỗi lần gặp là mỗi
lần giúi cho tờ
50 đô, [tao kẹt quá, mày cầm đỡ, đi Nguyễn Huệ làm vài tô phở], mấy đứa
em, bạn của thằng em đã tử trận, cũng cứu đói ông anh.
GCC nhớ là lần đó buồn quá,
ngồi quán, bỗng nhớ đến Thảo Trường, một đấng ngồi chung bàn nói, tôi
biết ông
ta ở đâu, thế là bèn chở Gấu tới cái Car Wash của ông con của TT.
Rồi theo ĐĐT,
chủ tiệm sách báo Văn Khoa, khu Phước Lộc Thọ, giáo sư tiếng Anh đại
học Văn
Khoa Sài Gòn thuở nào, lên trường đua. Ông này có hai cái thú, đua ngựa
và đánh
cờ tướng. Cũng thuộc loại cự phách, về cả hai thú, nhưng có lần, sau
cuộc cờ, ông gật gù phán,
ông nhỉnh hơn tôi 1 tí!
Ám ảnh phố phường.
…. đèn vàng
phố thị hay hiu hắt tóc xanh.
Kít!
Cớm mà cũng
bày đặt!
Note: Nhớ ra rồi, lần đó,
xẩy ra vụ
Trần Trường, đầu năm 1999.
Cũng là thời gian đọc Simone Weil.
Tôi
đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy
không
phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã
thường
trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ
những năm
trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu
tiên sau
1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn
Majestic và
khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó,
bây giờ
anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975,
chưa từng
bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở
Việt
Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào
cũng ra
ngồi… thiền giữa trời!
Tôi
nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi
im
lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và
tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong
câm lặng,
vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc
chiến, và
sau đó…
Và
tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính
là “cú
ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá
khứ”? (2)

Với hai câu
thơ “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng thì nhân dân
đều bại”,
Nguyễn Duy đánh đồng vàng thau lẫn lộn.
Trần Vũ
GCC vừa mới đọc,
một bài viết về Nguyễn Duy ở trên net, hình như của Đỗ Minh Tuấn thì
phải,
viết về
lần Nguyễn Duy bị nhà nước VC của thi sĩ sạc, và gọi thứ thơ của ông là
thứ "chủ
nghĩa
nhân đạo chung chung" (1)
Tuyệt!
Đúng là chủ
thì rất rành về tà lọt, đầy tớ!
Không chỉ
riêng Nguyễn Duy, một số nhà văn nhà thơ VC, thứ bảnh nhất, đều
lâm vào tình trạng này. Không dám nhìn thẳng sự thực, họ bèn làm ra vẻ
“đứng về phe nước mắt”,
nói chuyện
tử tế này, tử tế nọ, chơi trò bịp bợm, nhân dân đều bại, trong có tớ!
GCC nhớ là Brosdky có phán
về “cas” này, thú lắm, để từ từ coi lại....
(1)
Năm 1972,
Nguyễn Duy bị kiểm điểm và bị an ninh quân đội “quay” về tội “Chủ nghĩa
nhân đạo
chung chung” (chữ của Hà Xuân Trường viết trên báo Nhân dân) vì anh đọc bài thơ Đứng lại và Thơ tặng người
ăn mày... ở khoa Văn
ĐH Tổng hợp và Sư phạm.
Brodsky
phán, Khi bạn bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, bạn đang tán
tỉnh
thảm họa. [When you start editing your ethics, your morality –according
to what
is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov].
Nhưng chính quan điểm
của ông, “Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh”, mới là căn nguyên vấn đề:
Sở dĩ những
nhà văn
nhà thơ VC, thứ hạng nhất, chỉ đạt đến cái độ làng nhàng, chung chung,
về tài năng,
chính là do cái "chủ nghĩa nhân đạo chung chung" của họ.
GCC đã phán
rồi, có tên Bắc Kít nào ngu đâu, và đó là cái chết của xứ Bắc Kít.
Chỉ cần 1 tên
ngu thôi, là số phận xứ Mít thay đổi, nhưng đào đâu ra 1 tên Bắc Kít
ngu?
[Thuổng,“Những
cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng”. Anh cu Nils lạc vào 1 thành phố ở dưới
biển,
đi lang thang shopping, và khi thấy 1 món đồ kỷ niệm đẹp quá, tính mua,
thì gần
như tất cả cư dân của nó mở mắt lớn ra nhìn, nhưng sau cùng Nils lắc
đầu, vì
quên bóp ở nhà!
Hoá ra đây
là 1 thành phố bị Chúa nguyền, vì tha hoá, và chỉ 1 khi có 1 người nào
bỏ tiền
ra mua, chỉ 1 món đồ, do cư dân của nó lao động làm ra, thì lời nguyền
của Chúa
mới được gỡ bỏ] (1)
ND có thể là
người đóng thuế cho thơ nhiều nhất, nhưng làm sao bì được với “nhân
dân”, 3 triệu
con người, đã đóng, không chỉ máu, mà luôn cả mạng của họ, để làm ra
thứ thơ
làng nhàng, huề vồn, như của ND
*
Lần về Việt
Nam này, Du Tử Lê không mang theo tác phẩm của ông. Ông ngại những
phiền phức
có thể gặp phải.
Hơn một lần,
tôi định nói với ông là ông quan trọng hóa một vấn đề đơn giản. Nhưng
nghĩ tới
nghĩ lui, lại thôi.
Nhiều năm
trôi qua, vết thương cũng bắt đầu khép miệng rồi, ký ức khi nhớ khi
quên… mọi
thứ có còn nặng nề như trước đây nữa đâu mà băn khoăn cho thêm phiền
lòng.
Note: Anh cớm văn
nghệ VC này chỉ phán nhảm. Đất nước ngày càng khốn nạn thêm, vết thương
bắt đầu
khép miệng rồi cái con khỉ!
“... Người về như bụi, vàng trang
sách xưa, người về như mưa, soi tìm dấu cũ. Tôi buồn như cỏ, một đời
héo khô, tôi buồn như gió, ngang qua thềm nhà, thấy ai ngồi đợi, bóng
hình chia đôi, sầu tôi lụ khụ. Người về như sóng, buồn tôi quanh năm,
người về như đêm, mơ hồ cõi chết, tình tôi phập phều, những tăm phụ
bạc…”.
Một trong những đoạn thơ của Du Tử Lê mà
tôi cực thích.
Tôi nhớ là, ở lần gặp đầu tiên, tôi có
hỏi Du Tử Lê rằng: “Chú ạ, đời sống văn nghệ bên đó có vui không?”.
Du Tử Lê không đáp, mắt hướng nhìn lá vàng rơi đang lúc gió, tràn cả
mặt phố…
Có khi, đó cũng là một cách trả lời. Bởi
mãi về sau, ông mới chậm rãi bảo, ông yêu Sài Gòn vô cùng…
Ám ảnh phố
phường.
Cả bài viết không nói gì đến, ngoài câu bạn ta phán, tôi yêu Sài Gòn vô
cùng.
Tuy
nhiên,
cái “hình ảnh”, ‘ám ảnh phố phường’, thì lại… ám
ảnh GCC.
Virginia
Woolf có 1 bài viết, chôm đúng từ của anh cớm Vẹm, Ám ảnh phố phường:
Một cuộc
phiêu lưu Luân Đôn [Street Haunting: A London
Adventure], trong đó, bà ngợi ca những buổi tối mùa đông phiêu lưu
trong Luân
Đôn: Đúng như thế, chạy trốn là vĩ đại nhất trong lạc thú, và ám ảnh
phố phường mùa đông, vĩ đại nhất trong phiêu lưu [This is true: to
escape is the greatest
of pleasures; street haunting in winter the greatest of adventures]
GCC sẽ
viết
về ám ảnh phố phường Sài Gòn của GCC.
Ce qui m'a
le plus choqué dans les grands
procès staliniens, c'est l'approbation froide avec laquelle les hommes
d'État
communistes acceptaient la mise à mort de leurs amis. Car ils étaient
tous
amis, je veux dire par là qu'ils s'étaient connus intimement, avaient
vécu
ensemble des moments durs, émigration, persécution, longue lutte
politique.
Comment ont-ils pu sacrifier, et de cette façon si macabrement
définitive, leur
amitié?
Kundera
Điều làm cho tôi cáu nhất,
sốc nhất, tởm nhất, là thái độ gật gù chấp nhận, nếu không muốn nói
là hài lòng của đám tinh anh Bắc Kít, khi Đảng đưa ra tòa những đấng
bạn quí của
họ, và sau đó, làm thịt.
Họ chẳng đã
từng làm bạn tâm giao ư? Đã từng trải qua những giờ phút căng thẳng,
cay đắng,
gian khổ, trốn chạy, bách hại, cuộc chiến chính kiến dài. Làm sao có
thể họ hy
sinh tình bạn quí hiếm đến như thế, một cách thô bỉ ma cạp đến như thế?
Đó
là năm 1972. Tôi [Kundera] gặp một cô gái tại ngoại ô Prague,
trong một căn phòng người ta cho chúng tôi mượn. Hai ngày trước đó,
trong suốt
một ngày, cô gái bị công an tra hỏi, về tôi. Cô muốn lén gặp tôi, cô
nghi mình vẫn
bị công an theo dõi thường trực, và cô muốn cho tôi biết về những gì
công an hỏi
cô về tôi, và cô trả lời ra sao. Trong những cuộc tra hỏi như thế, đã
có những
câu trả lời của cô trùng hợp với những câu của tôi.
Một cô gái chưa từng biết gì về cuộc đời, có thể nói như thế. Cuộc tra
hỏi làm
cô khốn khổ, và sự sợ hãi khiến cô đau thắt ruột, từ ba bữa nay. Da dẻ
cô nhợt
nhạt, và cứ chốc chốc lại phải chạy vô nhà vệ sinh, để đi tiểu, đến
nỗi, suốt
cuộc gặp, tiếng nước dội cầu trấn át tất cả.
Tôi biết cô gái từ lâu. Cô thông minh, sắc sảo, đầu óc sáng rỡ, rất
rành trong
việc làm chủ những xúc động, cách hành xử, và cách ăn mặc của cô thì
mới tuyệt
vời làm sao, với chiếc áo dài giấu kín mọi nét hở hang. Vậy mà, đùng
một cái, nỗi
sợ khiến tất cả mở toang. Nỗi sợ, giống như lưỡi dao, mở toang thân thể
cô gái.
Cô đứng trước tôi, toang hoác, chẳng che đậy, giống như một khúc thịt
treo trên
cái móc của anh hàng thịt. Tiếng nước dội cầu vẫn âm ỉ, trấn ngự, và
bỗng
nhiên, tôi chỉ muốn hiếp cô gái.
Hiếp, chứ
không phải làm tình!
Bài viết này
mở ra cuốn Gặp Gỡ, khủng
khiếp, rúng động. GCC đọc, tính dịch trọn bài, rồi quên
đi mất.
Lần này chắc là phải làm thịt bài viết thôi, vì nhớ đến mối tình
trong trắng 10 năm trời chỉ hôn thôi của nhà nhạc sĩ lừng danh của xứ
Mít.
GCC cũng có
mối tình 5 năm không dám đụng, mà cũng không dám hôn, với cô bạn thân
của Gấu Cái,
tức cô phù dâu.
Gấu Cái chửi hoài, mày coi nó như thánh nữ, đâu có dám!
Nhưng 1 bà bạn
của cả hai bà, cũng bạn học hồi tiểu học, nghe, bĩu môi, ai mà biết
được chuyện
ma ăn cỗ!
Hà, hà!
Một
"cour" của GCC, khi ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, trong cuốn vở của cô
học trò, trong Bụi
Yêu tức là cầu
chúc quên được nhau
Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của
nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Chúng mình chỉ là hai hạt bụi lỡ thương nhau.
Một trang nhật
ký 17 Nov 1993 khi ngồi thư viện Consortium ở Trại
Nạn Nhân Đầu, sau 1975 của VC
Có hai cuốn khác của Koestler
cũng được dịch là Nội chiến bi thảm
và tội không thành, Thượng đế đã chết trong thành phố,
Nguyễn Quốc Trụ dịch.
Đây là những tác giả bị người Cộng Sản xếp vào loại sách phản động
chống Cộng.
Nguyễn Văn Lục, trong đoạn
trích trên, từ bài viết của ông trên Hợp
Lưu, về văn dịch trước 1975 tại miền nam, đã lầm cuốn tôi dịch, Thượng Đế Đã Chết
Trong Thành Phố, là của Koestler.
Nội Chiến Bi Thảm, chắc là cuốn Di Chúc Tây Ban Nha, Tội Công
Thành [công, như trong công và tội], chắc là một bản dịch khác
của Bóng Đêm Giữa
Ban Ngày. Cả hai đều của Koestler. Nhưng Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ, tôi dịch
cuốn La Peau, [Làn Da],
bản dịch tiếng Pháp, của một tác giả Ý, Curzio Malaparte
[1898-1957]. Ông còn là tác giả Kỹ
Thuật Đảo Chánh, hình như Bửu Ý cũng đã dịch
ra tiếng Việt, lẽ dĩ nhiên, trước 1975.
Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ,
mới đây thôi [1998] lại được mấy ông Tây tái bản, và
hít hà, nhân kỷ niệm lần thứ 100 năm sinh của Malaparte.
Viết về thời kỳ 1943-1945, khi
Mẽo giải phóng Ý. Câu chót của cuốn sách, bây giờ
đọc lại, trên tờ Lire, Đọc, số
Tháng Mười 1998, Gấu tôi mới biết là mình thuổng
của ông: “Thắng trận nhục lắm”. [C’est une honte de gagner une
guerre].
Hồi đó, tôi dịch cho ông Nhàn,
chuyên làm sách cho nhà sách Sống
Mới,
một trong những ông trùm về xuất bản tại miền nam trước 1975. Tay này
được lắm,
theo tôi, và một vài người. Tôi đã từng đi ăn tối với “Ông Trùm”, cùng
một số
đàn em của ông, tại Nhà Bè, như là một thư ký riêng, một chuyên gia
dịch riêng
của ông Nhàn, chủ nhà sách Vàng Son, một "chân rết" của nhà sách, nhà
phát hành Sống Mới.
Tôi đã có nhắc tới ông ta, lần mang tập truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở Sài
Gòn đến nhà sách SM nhờ ông mua giùm cho ít chục cuốn. Thay vì
ít chục, ông
nói, lấy 300 cuốn, miệng nói, tay móc bóp, xỉa tiền liền!
"Chẳng ai thèm mua đâu", đấy là
lời của me-xừ Trần Phong
Giao, tổng thư ký báo Văn, tức
cánh tay phải của ông Nguyễn Đình Vượng, khi tôi
và Huỳnh Phan Anh hai đứa khệ nệ mang chồng sách ra khỏi nhà in Văn, và mang đi
gạ bán cho một số nhà sách mong lấy lại vốn. TPG cũng là người đã quyết
định
“Không”, thay cho ông Vượng, khi tôi đưa bản thảo cuốn truyện cho nhà
xb Văn
in.
Vì ông nói không, nên HPA xúi, mày bỏ tiền ra in, tao mở nhà xuất bản,
thế
là miền nam xuất hiện nhà xuất bản Đêm
Trắng Huỳnh Phan Anh chủ trương. Và cuốn
đầu tay của nhà xb này, là cuốn Những
Ngày Ở Sài Gòn, do chính tác giả, tức khổ
chủ, bỏ tiền ra in lấy.
Khi biết SM lấy 300 cuốn, Trần
Phong Giao lắc đầu, nói, không thể hiểu nổi!
Có thể, sự kiện ông mua giùm
tới 300 cuốn, là có lời nói vô của Nguyên Vũ, lúc
đó là tay viết tiểu thuyết ăn khách nhất, và là con cưng của nhà sách
Sống Mới.
Anh có mặt tại nhà sách khi tôi bước vô. Tôi không quen anh, nhưng
không hiểu
sao, anh nói vô giùm cho tôi ít tiếng.
Duyên Anh đã từng "order"
HPA - nhà văn, nhà phê bình,
giáo sư triết, một trong những fondateurs của phong trào tiểu thuyết
mới tại miền
nam, người chủ trương nhà xb tiến bộ nhất, nhà xb Đêm Trắng - viết một cuốn phê
bình tiểu luận về nhà văn Duyên Anh.
Theo HPA kể lại, nó kéo tao tới
một thằng chuyên in sách của nó, và ra lệnh, chi cho thằng này 300 ngàn!
Tay Nhàn, trước làm chủ sự tại
Nha Kiểm Duyệt thuộc Bộ Thông Tin, nhờ vậy mà
quen biết đám xb, nhà sách, nhà phát hành… Ông từ chức, ra làm nhà xb
chắc là
do SM gật đầu nhận làm đàn em, mở ra chi nhánh nhà xb Vàng Son, in sách tại nhà
in Hồng Lam số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, của linh mục Cao Văn Luận.
Nhà tôi, GCC, số 29
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sở làm, Đài Vô Tuyến Điện Thoại quốc tế, số 7 Phan
Đình
Phùng, cũng kế ngay bên, tức ngay ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Đình
Phùng.
Trước mặt Đài Phát Thanh, là tiệm phở 54 Phan Đình Phùng (1), đám nhân
viên hai
đài, và đám nhà văn nhà báo có việc tới đài phát thanh thường ăn sáng
tại đây,
chủ quán là phát ngân viên Bưu Điện, người mà Gấu mỗi cuối tháng mừng
rỡ gặp.
Gấu
quen ông bạn nhà văn lớn Nguyễn Đình Toàn tại đây, khi anh đến bàn ăn
của Gấu,
tự giới thiệu và đề nghị viết cho Văn.
Gấu đã từng kể lại chuyện này trong Lần
Cuối Sài Gòn.
(1) Tiệm phở, số 44 Phan Đình Phùng, không phải 54, như ông bạn Thảo
Trường mới
mail cho biết. Nhưng 54 trứ danh hơn 44, vì có món thịt sống, thú hơn
phở chín,
hay tái.
Nói rõ hơn 54 là tiệm có mấy em de luxe!
Chân dài hạng sang.
Gấu chưa dám vô, vì quá gần
nhà, nhưng nghe bạn bè nói, được lắm!
Làm Gấu nhớ lần "đi" ngay tại
con đường bảnh số 1 Sài Gòn, tức đường
Tự Do, tức Đồng Khởi [vùng lên mất tự do] sau này.... Tới là phải ăn
vận com
lê, cổ cà vạt. Bấm chuông, chó dữ sủa gâu gâu. Có người mở cổng, cúi
rạp người
đón, dẫn đi qua một cái sân trải sỏi. Vô phòng khách, ngồi uống trà
tầu. Rồi đổi
qua rượu mạnh.
Mấy em ngồi phòng bên, thường là đánh bài tứ sắc, kín đáo chọn một em.
Sau đó
là vô phòng.
Bực có mỗi một chuyện, em năn nỉ đừng vò đầu em, vì mới làm tóc ở tiệm
số 1 ở
Sài Gòn.
Bực có một tí như thế mà cay đắng nhớ hoài đến chót đời, quái quỉ thiệt!
Gấu "đi" lần đó, ngay sau khi
lãnh lương cán sự Bưu Điện, lần thứ nhất.
Vẫn còn nhớ giá cả, 200
đồng/par coup. Tiền ông Diệm. Phở lúc đó chỉ có 3 đồng
một tô. Lương ra trường của Gấu là năm ngàn hai trăm đồng. Vàng hình
như hai
ngàn ba, hoặc hai ngàn tư một lượng thì phải.
Làm gì có chuyện lãnh lương lần đầu mà đã dám mò tới một nơi sang như
vậy?
Gấu
tự hỏi chính mình, và nhớ ra rằng, người đưa Gấu đi, là anh bạn lớn
tuổi làm
chung Bưu Điện, tay Bửu, tốt nghiệp cán sự kỹ thuật Phú Thọ, đàn anh
của Gấu. Lần
đó, sẵn com lê cà vạt, là do đi dự đám cưới, và trên đường về nhà, đàn
anh dẫn
đàn em đi chơi cho biết.
Cũng như lễ ra mắt của đàn em đối với đàn anh vậy.
Bửu sau lấy một cô, ra trường Bưu Điện, trưởng đài VTĐ thoại quốc nội.
Gấu nghe
tin thằng em trai mất, tại ngay đài, nằm bên cạnh đài VTĐ quốc tế, cùng
trên tầng
lầu cao nhất building số 5 Phan Đình Phùng. Đài Phát Thanh Sài Gòn, số
3. Sau Mậu
Thân, đài bị hư hại, bèn lấy luôn villa kế bên, nằm trên đường Nguyễn
Bỉnh
Khiêm. Villa này là của BĐ, phát cho kỹ sư viễn thông Trần Văn Viễn,
ông thầy dậy
trường quốc gia Bưu điện Gấu, sau làm Tổng Trưởng Giao Thông Công Chánh.
Cám ơn bạn ta! Trong Lần Cuối
Sài Gòn, Gấu vẫn viết là Phở 44, không hiểu sao,
bây giờ nhớ trật sang quán thịt sống kế bên. Lạ thiệt!
Nhưng quãng
đường chỉ một tí
như thế, đúng là như một cái lỗ đen, nén cả cuộc đời
của Gấu vào trong đó.
Đâu chỉ riêng cuộc đời của Gấu.
Như đã có lần kể, trong trận Mậu Thân, Đài Phát Thanh bị VC chiếm. Lính
Dù từ
trên trời, nhẩy xuống nóc nhà, trên đánh xuống. Chung quanh, chiến xa
xiết chặt,
không cho một mống thoát ra được.
Đám đặc công gần như không một ai sống sót. Dù kéo xác vô nhà để xe của
Đài
Phát Thanh - chỉ là một khoảng đất trống lợp tôn, chăng kẽm gai, ngay
chân cổng
building số 5, tức nơi Gấu làm việc.
Buổi sáng bữa đó, sau khi tan trận đánh, Gấu từ trên Đài hạ sơn, băng
qua đường
PĐP, ghé tiệm Phở 44.
Chi tiết đọng lại mãi trong Gấu, là độc nhất một chiếc dép râu, nằm trơ
cu lơ
trên mặt đường nhựa, phía trước Phở 44, đường Phan Đình Phùng.
Gấu chưa từng làm thơ bao giờ, vậy mà bao nhiêu năm sau, ra hải ngoại,
một
trong những bài thơ đầu tiên, là viết về chủ nhân chiếc dép râu đó:
Trong nhà xe Đài Phát
Thanh
Người lính Dù dùng làm
nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức
dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của
những người đã chết
Nạn Nhân Đầu, sau 1975 của VC
Có hai cuốn khác của Koestler
cũng được dịch là Nội chiến bi thảm
và tội không thành, Thượng đế đã chết trong thành phố,
Nguyễn Quốc Trụ dịch.
Đây là những tác giả bị người Cộng Sản xếp vào loại sách phản động
chống Cộng.
Nguyễn Văn Lục, trong đoạn
trích trên, từ bài viết của ông trên Hợp
Lưu, về văn dịch trước 1975 tại miền nam, đã lầm cuốn tôi dịch, Thượng Đế Đã Chết
Trong Thành Phố, là của Koestler.
Nội Chiến Bi Thảm, chắc là cuốn Di Chúc Tây Ban Nha, Tội Công
Thành [công, như trong công và tội], chắc là một bản dịch khác
của Bóng Đêm Giữa
Ban Ngày. Cả hai đều của Koestler. Nhưng Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ, tôi dịch
cuốn La Peau, [Làn Da],
bản dịch tiếng Pháp, của một tác giả Ý, Curzio Malaparte
[1898-1957]. Ông còn là tác giả Kỹ
Thuật Đảo Chánh, hình như Bửu Ý cũng đã dịch
ra tiếng Việt, lẽ dĩ nhiên, trước 1975.
Thượng Đế Đã Ngỏm Củ Tỉ,
mới đây thôi [1998] lại được mấy ông Tây tái bản, và
hít hà, nhân kỷ niệm lần thứ 100 năm sinh của Malaparte.
Viết về thời kỳ 1943-1945, khi
Mẽo giải phóng Ý. Câu chót của cuốn sách, bây giờ
đọc lại, trên tờ Lire, Đọc, số
Tháng Mười 1998, Gấu tôi mới biết là mình thuổng
của ông: “Thắng trận nhục lắm”. [C’est une honte de gagner une
guerre].
Hồi đó, tôi dịch cho ông Nhàn,
chuyên làm sách cho nhà sách Sống
Mới,
một trong những ông trùm về xuất bản tại miền nam trước 1975. Tay này
được lắm,
theo tôi, và một vài người. Tôi đã từng đi ăn tối với “Ông Trùm”, cùng
một số
đàn em của ông, tại Nhà Bè, như là một thư ký riêng, một chuyên gia
dịch riêng
của ông Nhàn, chủ nhà sách Vàng Son, một "chân rết" của nhà sách, nhà
phát hành Sống Mới.
Tôi đã có nhắc tới ông ta, lần mang tập truyện ngắn đầu tay, Những Ngày Ở Sài
Gòn đến nhà sách SM nhờ ông mua giùm cho ít chục cuốn. Thay vì
ít chục, ông
nói, lấy 300 cuốn, miệng nói, tay móc bóp, xỉa tiền liền!
"Chẳng ai thèm mua đâu", đấy là
lời của me-xừ Trần Phong
Giao, tổng thư ký báo Văn, tức
cánh tay phải của ông Nguyễn Đình Vượng, khi tôi
và Huỳnh Phan Anh hai đứa khệ nệ mang chồng sách ra khỏi nhà in Văn, và mang đi
gạ bán cho một số nhà sách mong lấy lại vốn. TPG cũng là người đã quyết
định
“Không”, thay cho ông Vượng, khi tôi đưa bản thảo cuốn truyện cho nhà
xb Văn
in.
Vì ông nói không, nên HPA xúi, mày bỏ tiền ra in, tao mở nhà xuất bản,
thế
là miền nam xuất hiện nhà xuất bản Đêm
Trắng Huỳnh Phan Anh chủ trương. Và cuốn
đầu tay của nhà xb này, là cuốn Những
Ngày Ở Sài Gòn, do chính tác giả, tức khổ
chủ, bỏ tiền ra in lấy.
Khi biết SM lấy 300 cuốn, Trần
Phong Giao lắc đầu, nói, không thể hiểu nổi!
Có thể, sự kiện ông mua giùm
tới 300 cuốn, là có lời nói vô của Nguyên Vũ, lúc
đó là tay viết tiểu thuyết ăn khách nhất, và là con cưng của nhà sách
Sống Mới.
Anh có mặt tại nhà sách khi tôi bước vô. Tôi không quen anh, nhưng
không hiểu
sao, anh nói vô giùm cho tôi ít tiếng.
Duyên Anh đã từng "order"
HPA - nhà văn, nhà phê bình,
giáo sư triết, một trong những fondateurs của phong trào tiểu thuyết
mới tại miền
nam, người chủ trương nhà xb tiến bộ nhất, nhà xb Đêm Trắng - viết một cuốn phê
bình tiểu luận về nhà văn Duyên Anh.
Theo HPA kể lại, nó kéo tao tới
một thằng chuyên in sách của nó, và ra lệnh, chi cho thằng này 300 ngàn!
Tay Nhàn, trước làm chủ sự tại
Nha Kiểm Duyệt thuộc Bộ Thông Tin, nhờ vậy mà
quen biết đám xb, nhà sách, nhà phát hành… Ông từ chức, ra làm nhà xb
chắc là
do SM gật đầu nhận làm đàn em, mở ra chi nhánh nhà xb Vàng Son, in sách tại nhà
in Hồng Lam số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, của linh mục Cao Văn Luận.
Nhà tôi, GCC, số 29
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sở làm, Đài Vô Tuyến Điện Thoại quốc tế, số 7 Phan
Đình
Phùng, cũng kế ngay bên, tức ngay ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Đình
Phùng.
Trước mặt Đài Phát Thanh, là tiệm phở 54 Phan Đình Phùng (1), đám nhân
viên hai
đài, và đám nhà văn nhà báo có việc tới đài phát thanh thường ăn sáng
tại đây,
chủ quán là phát ngân viên Bưu Điện, người mà Gấu mỗi cuối tháng mừng
rỡ gặp.
Gấu
quen ông bạn nhà văn lớn Nguyễn Đình Toàn tại đây, khi anh đến bàn ăn
của Gấu,
tự giới thiệu và đề nghị viết cho Văn.
Gấu đã từng kể lại chuyện này trong Lần
Cuối Sài Gòn.
(1) Tiệm phở, số 44 Phan Đình Phùng, không phải 54, như ông bạn Thảo
Trường mới
mail cho biết. Nhưng 54 trứ danh hơn 44, vì có món thịt sống, thú hơn
phở chín,
hay tái.
Nói rõ hơn 54 là tiệm có mấy em de luxe!
Chân dài hạng sang.
Gấu chưa dám vô, vì quá gần
nhà, nhưng nghe bạn bè nói, được lắm!
Làm Gấu nhớ lần "đi" ngay tại
con đường bảnh số 1 Sài Gòn, tức đường
Tự Do, tức Đồng Khởi [vùng lên mất tự do] sau này.... Tới là phải ăn
vận com
lê, cổ cà vạt. Bấm chuông, chó dữ sủa gâu gâu. Có người mở cổng, cúi
rạp người
đón, dẫn đi qua một cái sân trải sỏi. Vô phòng khách, ngồi uống trà
tầu. Rồi đổi
qua rượu mạnh.
Mấy em ngồi phòng bên, thường là đánh bài tứ sắc, kín đáo chọn một em.
Sau đó
là vô phòng.
Bực có mỗi một chuyện, em năn nỉ đừng vò đầu em, vì mới làm tóc ở tiệm
số 1 ở
Sài Gòn.
Bực có một tí như thế mà cay đắng nhớ hoài đến chót đời, quái quỉ thiệt!
Gấu "đi" lần đó, ngay sau khi
lãnh lương cán sự Bưu Điện, lần thứ nhất.
Vẫn còn nhớ giá cả, 200
đồng/par coup. Tiền ông Diệm. Phở lúc đó chỉ có 3 đồng
một tô. Lương ra trường của Gấu là năm ngàn hai trăm đồng. Vàng hình
như hai
ngàn ba, hoặc hai ngàn tư một lượng thì phải.
Làm gì có chuyện lãnh lương lần đầu mà đã dám mò tới một nơi sang như
vậy?
Gấu
tự hỏi chính mình, và nhớ ra rằng, người đưa Gấu đi, là anh bạn lớn
tuổi làm
chung Bưu Điện, tay Bửu, tốt nghiệp cán sự kỹ thuật Phú Thọ, đàn anh
của Gấu. Lần
đó, sẵn com lê cà vạt, là do đi dự đám cưới, và trên đường về nhà, đàn
anh dẫn
đàn em đi chơi cho biết.
Cũng như lễ ra mắt của đàn em đối với đàn anh vậy.
Bửu sau lấy một cô, ra trường Bưu Điện, trưởng đài VTĐ thoại quốc nội.
Gấu nghe
tin thằng em trai mất, tại ngay đài, nằm bên cạnh đài VTĐ quốc tế, cùng
trên tầng
lầu cao nhất building số 5 Phan Đình Phùng. Đài Phát Thanh Sài Gòn, số
3. Sau Mậu
Thân, đài bị hư hại, bèn lấy luôn villa kế bên, nằm trên đường Nguyễn
Bỉnh
Khiêm. Villa này là của BĐ, phát cho kỹ sư viễn thông Trần Văn Viễn,
ông thầy dậy
trường quốc gia Bưu điện Gấu, sau làm Tổng Trưởng Giao Thông Công Chánh.
Cám ơn bạn ta! Trong Lần Cuối
Sài Gòn, Gấu vẫn viết là Phở 44, không hiểu sao,
bây giờ nhớ trật sang quán thịt sống kế bên. Lạ thiệt!
Nhưng quãng
đường chỉ một tí
như thế, đúng là như một cái lỗ đen, nén cả cuộc đời
của Gấu vào trong đó.
Đâu chỉ riêng cuộc đời của Gấu.
Như đã có lần kể, trong trận Mậu Thân, Đài Phát Thanh bị VC chiếm. Lính
Dù từ
trên trời, nhẩy xuống nóc nhà, trên đánh xuống. Chung quanh, chiến xa
xiết chặt,
không cho một mống thoát ra được.
Đám đặc công gần như không một ai sống sót. Dù kéo xác vô nhà để xe của
Đài
Phát Thanh - chỉ là một khoảng đất trống lợp tôn, chăng kẽm gai, ngay
chân cổng
building số 5, tức nơi Gấu làm việc.
Buổi sáng bữa đó, sau khi tan trận đánh, Gấu từ trên Đài hạ sơn, băng
qua đường
PĐP, ghé tiệm Phở 44.
Chi tiết đọng lại mãi trong Gấu, là độc nhất một chiếc dép râu, nằm trơ
cu lơ
trên mặt đường nhựa, phía trước Phở 44, đường Phan Đình Phùng.
Gấu chưa từng làm thơ bao giờ, vậy mà bao nhiêu năm sau, ra hải ngoại,
một
trong những bài thơ đầu tiên, là viết về chủ nhân chiếc dép râu đó:
Trong nhà xe Đài Phát
Thanh
Người lính Dù dùng làm
nơi chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức
dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của
những người đã chết
Note: Cái đoản
văn “Thời còn trẻ tuổi” sau được đưa vô trong Những Ngày Ở Sài Gòn, đổi tít là
“Chuyện
Hai Thành Phố”. Có cái xen ngủ nhà bạn Cẩn, đêm bị xét nhà, xét hộ
khẩu, GCC biết
thân, lui cui đi kiếm đôi dép, tên “cảnh sát Ngụy” ngạc nhiên hỏi, mi
lấy dép tính
đi đâu, GCC trả lời, thì đi theo các ông về đồn chứ đi đâu!
Chuyện hai thành phố
1 2 3 4
[trong Những ngày ở Sài Gòn, 1970]
Toi dang viet ve bai tho
Bien
H.A cho phep dung may cai mail dau
Hw?
Gui kem,
Tks
Wed, 10 Feb
2010 13:05:28 -0800
"Biển" cuả ông đang quạnh
quẽ, buồn thăm thẳm và lạnh
băng...
Đẹp như vậy mà sao không để cho nó được yên hở Gấu Nhà Văn?
H.A
Cái tít làm
Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày mới vô làng.
“Khí hậu ẩm
ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng
trên Nghệ Thuật. VL đọc bản thảo, nghiêm giọng phán, mày viết sao là nó
mang
cái tên của mày, ký ở dưới bài viết đấy.
Ý anh muốn
nói, mày thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi
1 đường, tương tự, khi GCC viết về 1 đấng bạn quí khác.
Cái khí hậu
của TV, thì cũng là cái khí hậu tâm thần của Sebald, theo GCC
Sau cuộc chiến
[Mít], nếu bạn vẫn là con người, thì không thể lành lặn được.
Phải có 1
cái gì ở trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu dở chứng.
NQT
Gấu có nhớ nhà
không?
Trước
1975, là một chuyên viên kỹ thuật của Bưu Điện, Gấu coi chuyện viết văn
là chuyện ở ngoài cõi đời thường, ngày hai bữa đi làm kiếm tiền nuôi
thân, nuôi gia đình. Trong sở, trừ một số thật thân, ít người biết Gấu
làm nghề vụng trộm đó.
Nói vụng trộm, là cả với gia đình, người thân. Mỗi lần viết, là phải
đợi cho vợ con đi ngủ hết, mình cũng giả đò đi ngủ, và sau đó, len lén
dậy, len lén ra bàn, bật cái đèn nho nhỏ, ánh sáng vừa đủ chiếu trang
giấy, và sau đó, rị mọ viết. Khi đã nhập, chẳng còn biết mọi chuyện
xung quanh, có khi Gấu Cái đứng ngay trước mặt, Gấu Đực tui cũng chỉ
nhìn trân trân, không ý thức, không cảm giác, không nhận ra là ai. Đó
là những lúc đang lên đồng, đang nhập đồng.
Còn khi chưa nhập, bị bắt gặp tại trận đang làm cái việc vụng trộm đó,
Gấu bực lắm. Cáu lắm.
Ui
chao, đọc lại mới thấy đau lòng. Có những lần Gấu Cái cần chồng quá,
thức dậy, ghé vô tai, thôi đi ngủ, khuya rồi, vậy mà cũng gắt nhặng lên!
Chính vì
vậy, khi tờ Tin Sáng của đám
cách mạng 30 tháng Tư đăng danh
sách những
nhà văn phản động đồi truỵ, hình như chừng một tháng sau ngày 30 tháng
Tư, Gấu
chẳng hề biết, cho tới khi một anh bạn cùng sở dí tờ báo vào mặt, cười
cười, bỏ
đi.
Đọc, Gấu
thực tình bị choáng. Ngạc nhiên vô cùng. Cảm phục vô cùng, về cái sự
tài ba của
VC. Và cũng rất ư là bị sợ vô cùng.
Cái danh sách nhà văn phản động đồi truỵ đầu tiên đó, như Gấu tui còn
nhớ được,
gồm có 12 tên. Gấu đứng hàng thứ 7, với tập truyện ngắn độc nhất Những Ngày Ở
Sài Gòn.
Đám Sáng Tạo chiếm gần hết
danh sách.
Làm sao "nó" biết mình viết văn? Làm sao "nó" có được Những
Ngày Ở Sài Gòn? Đâu có còn cuốn nào?
Bí mật về "nó", mãi sau này, khi ra hải ngoại, tôi mới "ngộ"
ra được.
Cái tay
viết cái danh sách đó, sau này cũng chạy ra hải ngoại, sớm lắm. Cũng...
viết văn. Nổi tiếng lắm. Chống Cộng
khủng lắm.
Trong 1 bài trả lời phỏng vấn trên tờ
Văn Học của NMG, anh ta đã
“lờ mờ” thừa
nhận, là tác giả danh sách đen, khi kể lại, sau ngày 30 Tháng Tư
1975, có yết
kiến, vấn an sư phụ, đàn anh nằm vùng ngày nào, là LP, khi đó là Thứ
Trưởng Văn
Hóa chính phủ tạm thời của Miền Nam của đám nằm vùng.
Và đàn anh phán, chú về làm
cái danh sách…
Tay này
"thú
nhận", tôi có biết nhà văn Miền Nam nào là “phản động đồi trụy” đâu,
thế
là, ghét
đứa nào, là tôi nhét vô danh sách!
GCC cũng bật mí thêm, tay
này đúng ra phải biết ơn TTT, vậy mà nhét cả
đám Sáng
Tạo vô danh sách đen. Nhảm thế.
Anh ta ghét
GCC, vì cái sự đọc nhiều, bày đặt “trí
thức”, trong khi GCC là 1 người đã từng "nâng đỡ" [VC kêu là "hiệu
đính"] anh ta.
Số là, khi
TTT chán làm trang VHNT của tờ nhật báo quân đội VNCH, Tiền Tuyến, ông
giao cho GCC.
GCC rủ
thêm HPA cùng đứng bảng
hiệu, sau HPA "quê", rút dù, GCC độc diễn.
Ông giao luôn 1 số bài còn tồn đọng
của một vài tác giả gửi tới, và biểu GCC, cậu coi nếu đăng được
thì đăng
cho họ, tốt nhất, nên sửa, viết lại 1 số bài mà cậu nghĩ đăng được.
GCC sửa lại 1 số bài của hai trong số những tác giả. Một là cái
anh đệ tử
LP. Và người kia, là Nguyễn Mai.
Sau đó, NM trả ơn, giới thiệu GCC với ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng
Son, nhờ vậy,
GCC thêm nghề dịch giả. Nhờ làm nghề này, dịch 1 số tác phẩm của
Cronin, GCC sống
sót Trại Tù Đỗ Hòa.
Một ơn, một
oán, là vậy
No single
imagination can truly own a city, so when we speak of Proust’s Paris ,
Joyce’s
Dublin , Musil’s Vienna and Lawrence Durrell’s Alexandria , we are
really
clearing a space in our minds where specific happenings and feelings
may be
identified and reconvened. It is these novelists’ pressing need to set
their
narratives down in some palpable place, almost as aliens colonizing a
territory, rather than a compulsion to celebrate their country or
fictionalize
an already famous vicinity that leads to their iconic inventions.
K dịch giùm,
Tks. NQT
Không một đầu
óc tưởng tượng nào, một mình nó, có thể thực sự sở hữu một thành phố
đâu, bởi
thế khi chúng ta nói đến Paris của Proust, Dublin của Joyce, Vienna của
Musil
và Alexandria của Lawrence Durrell, là chúng ta đã dọn sạch một chỗ
trống trong
trí óc chúng ta sẵn sàng để cho những sự kiện và cảm xúc đặc thù nào đó
được nhận
diện và gom góp lại . Chính vì sự cần thiết phải sắp đặt những tình
tiết chuyện
kể của các nhà văn này vào một nơi chốn có thể chạm tay tới được, gần
như theo
kiểu ngoại nhân tìm cách chiếm hữu một vùng đất nào đó làm thuộc địa,
hơn là ý
hướng thăng hoa đất nước mình, hoặc tiểu
thuyết hóa một khu vực đã nổi tiếng sẵn, đã dẫn dắt họ đến những sáng
tạo đầy
biểu tượng
Tks
Cau nay hay qua,
ma kho dich qua
Nhat la khuc
sau.
*
Tks again
NQT
TB: Đang chạy
nước rút với Istanbul. NQT
Sách Quí
Anh biết mấy thứ
tiếng?

Anh chàng
sinh viên luật Thái Lan, do Cao Uỷ muớn làm thẩm sát viên, thanh lọc
viên, ngó
cái hình, rồi ngó cái thằng ốm đói ngồi trước mặt, vừa nghi ngờ vừa ái
ngại, nhưng đến khi nghe nó sủa, tớ là nhà phê bình văn học, thì bèn
giật mình
đánh thót một cái, đọc lại hồ sơ, rồi thương hại phán, tao cho mày nói
lại,
đừng bịp tao!

Mục
"Tạp Ghi", Vấn Đề số 34, do Tuấn Anh phụ trách.
Tuấn, là anh
cu Tuấn, thằng nhóc
con đầu lòng của GCC. Anh, là tên cô bạn thân của Gấu Cái, cô phù dâu
ngày nào!
Cái
tít "Descartes nhìn về Phương Tây", là để chọc quê thi sĩ NS, tác giả
"Descartes nhìn từ Phương Đông".
Cái entry "Đọc là gì", chắc là về nói về Roland Barthes.
Tks.
NQT
How many
languages do you know?
(Anh biết mấy
ngôn ngữ?)
Do đến trại
tị nạn sau “tử điểm”, tức là sau thời hạn được “tự động” coi là tị nạn
chính trị,
những người như tôi phải trải qua một cuộc thanh lọc, qua đó nhà chức
trách nước
tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị, hay chỉ là di
dân kinh
tế.
Thời gian chờ
đợi thanh lọc thường trên dưới một năm. Với chúng tôi, nó còn là thời
gian “chạy
thuốc”: liên lạc thân nhân ở nước ngoài, nếu có, hoặc bạn bè, cơ quan,
đơn vị
cũ… để xin tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận, hoặc làm hồ sơ bảo lãnh.
Nhân đọc một
số báo (hình như của lực lượng kháng chiến Hoàng Cơ Minh) ở trong trại,
thấy
tên nhà văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà, qua địa chỉ toà soạn.
“Thư của bạn
tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng trái đất,” bà viết thư trả lời,
từ một địa
chỉ Hồng Kông, do đang được học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa.
Bà than
giùm, “Bạn qua trễ quá!”
Kèm, là thư
của Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại),
gửi cho
Trùng Dương, chứ không phải cho tôi, “Bạn nhờ tôi can thiệp cho một ông
bạn nào
đó, nhưng lại quên không cho địa chỉ…”.
Tôi liên lạc.
Anh trả lời, gửi tặng sách (cuốn Ý Trời, nguyên tác tiếng Anh, anh là
tác giả,
The Will of Heaven, chắc là muốn dặn dò khéo: hãy cố lo học tiếng Anh!).
Kèm giấy xác
nhận. Là hội viên Văn Bút Việt Nam từ trước 1975.
Sau này gặp,
anh cho biết, đã phải nhờ một tờ báo địa
phương lo in giùm, chỉ bốn giấy chứng nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt
Nam Hải
Ngoại thật tuyệt. Bốn tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó đang ở trại tị
nạn
vùng Đông Nam Á. Ở Thái Lan, có ký giả Hồ Ông và tôi.
Có thể, việc
xác nhận là “bổn phận” của anh, với tư cách đương kim chủ tịch Văn Bút
Việt Nam
Hải Ngoại, nhưng cứ nghĩ đến cảnh anh loay hoay nhờ cậy người này người
nọ “vẽ”
giùm cho một “tác phẩm” đẹp tuyệt vời như trên, thật là đáng quí.
Thật sự, nếu
gặp một người khác, không phải anh, có thể mọi chuyện không đơn giản
như vậy.
Chả là, trước
1975, do viết ba thứ phê bình điểm sách, khi tuổi còn trẻ, ngựa non háu
đá, như
các cụ nói, Gấu tui gây không ít ân oán
giang hồ. Cứ nghĩ, nếu gặp một ông, hay một bà, đã từng bị Gấu tui
phạng, chưa
chắc người đó đã xử sự như Nguyễn Ngọc Ngạn. Hơn nữa, tôi còn nhớ, đúng
thời
gian đó, một số nhà văn hải ngoại đang vận động ký tên danh sách yêu
cầu nhà nước
Việt Nam thả nhà văn Dương Thu Hương [thời gian 1990 -1992, hình như
vậy]. Trên
tờ Làng Văn, có bài viết về trường hợp này, của Nguyễn Ngọc Ngạn. Anh
cho rằng,
cái việc khóc người hàng xóm, trong khi bà con thân nhân của mình đang
bị kẹt ở
trại tị nạn, và có nhiều nguy cơ bị trả về cho ông nhà nước Vi-xi, là
một việc
làm cần xét lại.
Tôi gặp Hồ
Ông tại trại cấm Sikiew, do anh tới trại trước, và đã trải qua thanh
lọc. Anh dặn
tôi, khi đi thanh lọc, phải nổ. Và nổ thật dữ. Đừng khiêm tốn. Không
được quyền
khiêm tốn!
Anh lấy thí
dụ, tay thanh lọc đã hỏi anh:
-Ông có
nghĩ, ông là một ký giả nổi tiếng, chống Cộng, và rất nguy hiểm cho chế
độ hiện
thời ở Việt Nam?
Hồ Ông trả lời:
-Đúng như vậy.
Riêng về trường hợp nổi tiếng, tôi có thể chứng minh liền lập tức. Khi
thuyền tị
nạn chúng tôi tới bờ biển Thái Lan, đài truyền hình địa phương đã cho
phóng
viên tới gặp, và phỏng vấn tôi.
Ngoài tờ giấy
xác nhận của Văn Bút, tôi có thêm được một tài liệu quí giá cũng chẳng
kém: cuốn
"Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam", còn có tên thật nổ là "Những
Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta", do Nguyễn Đông Ngạc xuất
bản.
Trong, có hình tôi, và vài dòng tiểu sử. Cuốn này tôi cũng tình cờ gặp
được ở
trong trại. Chủ nhân cuốn sách, một học trò học tiếng Anh của tôi, đã
tặng luôn
cho thầy, làm tài liệu thanh lọc.
Phỏng vấn
thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái Lan đảm trách, với một
thông dịch
viên, thưòng là một người Việt ở Thái Lan. Như đa số ở đây, họ đều có
cảm tình với Miền Bắc. Nhà thường có treo hình ông Hồ.
Nhưng cảm tình hay không cảm tình,
nói chung, họ cố dịch trung thực những gì họ nghe, và hiểu được.
Trong cuộc
phỏng vấn thanh lọc, có mấy chi tiết thật lý thú liên quan tới “văn
chương” có
lẽ cũng nên viết ra ở đây, để bạn đọc cùng thưởng thức.
Nói chung,
thường rất khó mà hiểu được, người phỏng vấn tin hay không tin, những
câu trả lời.
Và thường ra, họ giữ một bộ mặt hết sức khách quan, phải nói là dửng
dưng, lạnh
lẽo, suốt buổi hỏi cung.
Riêng trường hợp của tôi, khi nghe tôi nói là nhà văn,
anh sinh viên luật nhìn phần lý lịch ghi trên tờ phiếu cá nhân trong hồ
sơ Cao
Uỷ Tị Nạn, và không qua thông dịch viên, hỏi thẳng bằng tiếng Anh:
-Anh nói anh
là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn
của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết
truyện ngắn, và phê bình văn học
Anh nhìn lại
tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh
nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung học, có một văn bằng đại
học. Anh
nói anh làm thơ, viết truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình văn học, tôi
không
tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn
chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút ngoại ngữ, nên có đọc văn
chương thế
giới, và có chút khiếu về phê bình văn học.
-Anh học tiếng
Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi
trung học, và sau đó có làm cho một cơ quan thông tấn nước ngoài.
-Anh nói,
anh có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh biết mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba
thứ tiếng.
-Trong này
chỉ ghi tiếng Anh?
-Tôi biết tiếng
Pháp nữa.
-Như vậy mới
có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó,
tôi cũng hết còn bình tĩnh, và hỏi lại:
-Ông quên tiếng
mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt
mỉm cười.
Tôi nghĩ,
trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi là người độc nhất được
hưởng một nụ
cười như vậy!
Giả như Chủ
Tịch Văn Bút Mít Hải Ngoại, khi đó, là…. "Bạn Quí" của GCC, thì sự
tình nó sẽ ra sao, nhỉ?
Đếch "hà, hà" nổi!
What We
Talk About When We Talk About Anne Frank by Nathan Englander
(Weidenfeld & Nicolson, hardback, out
now). Reading this deeply felt and unsettling collection reminded me of
walking
into the forest of concrete slabs that form the Holocaust Memorial in
Berlin.
To begin with, all seems simple; soon you are in deeper, and darker,
than you
expected. The linking theme is Jewishness, and the Jews in Nathan
Englander's
stories, whether orthodox or secular, are preoccupied by fine
distinctions -
between neurosis and humour, piety and superstition, legal contract and
human
trust. The first and last stories deal with the effects of the
Holocaust as it
casts its long shadow down the generations; in each, Englander's spare,
unshowy
prose enhances a sense of devastation. The book comes so larded with
compliments - from Jonathan Franzen,Jennifer Egan and Dave Eggers,
among others
- that you set out feeling certain it will disappoint. It doesn't.
Intel
Life
Chúng ta
nói gì khi chúng ta nói về… Anne Frank.
GCC hỏi BHD.
Đọc tập truyện thấm thật
sâu, gây nỗi quan hoài, lo lắng này, như thấy mình đang đi vô 1 khu
rừng làm
bằng những phiến đá mỏng tạo thành Đài Tưởng Niệm Lò Thiêu ở
Berlin. Để
bắt đầu, thì lại có vẻ như rất ư là đơn giản; chẳng mấy chốc, bạn cảm
thấy sâu
quá, tối quá, sâu tối hơn rất nhiều so với bạn dự đoán. Đề tài nối kết
là Do
Thái Tính, và những người Do Thái trong tập truyện, Chính Thống Giáo
hay là Thế
Tục, thì đều quan tâm đến những sự phân biệt tinh, mịn, nguyên – giữa
loạn thần
kinh, hay tiếu lâm, giữa mộ đạo và mê tín, giữa hợp đồng hợp pháp hay
là lòng
tin cậy giữa con người. Truyện đầu và cuối đụng tới hậu quả của Lò
Thiêu, như
nó đổ cái bóng của nó xuống hàng hàng thế hệ; trong mỗi truyện ngắn,
văn của
tác giả, thanh đạm, kiềm chế, tạo sự tan hoang, rã rời ở nơi người đọc.
Nhiều người thổi nó quá, toàn
những bậc thầy, như Jonathan
Franzen,Jennifer
Egan and Dave Eggers … có thể làm bạn ngại, và có thể còn làm bạn bất
bình, thất
vọng, nhưng không phải như vậy.
Đọc thì biết, BHD biểu GCC.
Cái cuốn"
What…" trên, là 1 trò chơi, mà tác giả đặt ra, được gọi là “Anne Frank
game”: Giả như Lò Thiêu lại xẩy ra, thì ai
là ‘bạn quí’
[hàng xóm] sẽ chứa chấp bạn?
Có 1 cái gì đó,
rất khó hiểu, trong cái vụ 10 đô mà bạn quí mất công đi từ Mẽo qua Trại
tặng
GCC.
Anh đi vì công vụ, thực hiện 1 cái phóng sự cho 1 tờ báo.
Anh có
thể tặng GCC trên con số đó, không nhiều, nhưng đủ để ghi vô chi phí
lần ghé
Trại.
Tại sao chỉ… 10 đô?
Cũng thế, là
vụ cái áo cũ cộc tay mà 1 đấng bạn quí khác tặng
Gấu Xì Ke, và sau đó đi rêu rao, trong khi vờ cái
vụ GCC biếu anh ta tiền đặt cọc mua căn nhà trên Làng Báo Chí Thủ Đức.
Tại sao nhớ 1,
quên 1?

Anh còn nhớ
hình ảnh này không?
Sàigòn 1972
tại quán Hương Xưa quận GòVấp.
Cả 1 quãng đời
thê lương, (1), may nhờ NTK mà còn giữ được.
Tks. NQT
(1)
Bao năm Gấu
cháy hoài, như ngọn đèn dầu
lạc,
Vẫn giấu ở
trong tim một bóng hồng
Và nếu trái
tim của ngọn lửa này, là bóng hồng chẳng hề bị trấn áp
Đêm đen mơ
mòng giùm Gấu, giấc mơ bất biến
Của Chuột và
Gấu
Note: Bài viết
này, chỉ có 1 mẩu, tình cờ thấy nó, Gấu cũng không làm sao nhớ, kỷ niệm
về
Chuột của Gấu, nó ra làm sao nữa!
Không hiểu
Chuột ở đây là… Chuột Nhắt, 1 nick của 1 nữ thi sĩ ở trong nước?
Đọc 4 câu
thơ, quái quỉ làm sao, của... GNV đấy ư?
Bạn NDT, họa
sĩ, những lần nhớ lại những ngày uống bia “tự chế“ của Sài Gòn sau
1975, những
“gì gì” Nắng Mới, Lúa Mới… thường kể là, vừa mới thấy GCC đang
ngồi
kế bên, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã mất tiêu. Hóa ra “chàng” chuồn đi làm
1 một
“shot"
Nếu
không làm sao uống tiếp!
Ấy là vì, rượu làm rã “ken”.
Uống,
tại cái
sạp bán bia tự chế, mồi ốc, nghêu, của bà cụ Gấu, ngay trước cổng chung
cư 29/8D Nguyễn Bỉnh
Khiêm, kế ngay sạp báo.
Hẻm chích
choác: Bên kia cầu Thị Nghè, Hẻm 72.
Suốt bao ngày tháng
trước 1975, "Gấu Nhà Văn" chỉ có hai bức hình, một, trên,
và một,
trong cuốn Hai Mươi Năm Văn Học Miền
Nam của Nguyễn Đông Ngạc, chụp ở
Sở Thú.
Bức
hình cứu mạng, như Gấu đã có lần viết, về lần “thanh lọc” tại
trại tị nạn
Thái Lan.
NDN, không phải cuốn sách của anh, còn là cứu tinh của GCC, những ngày
ở Trại Tị
Nạn. Và cái sự liên lạc lại, được với anh, quả là hoàn toàn nhờ ông
Giời
ngó xuống
gia đình Gấu.
Nếu chỉ trông vào mấy đấng bạn quí, hay, nhà văn nữ nổi tiếng
nhất Miền
Mam trước 1975, số phận Gấu kể như tiêu.
Nhiều
khi tí tiểu sử trở thành bùa cứu mạng!
Trước 1975, Gấu có một cái hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái
tiểu sử độc
nhất, như sau đây. Không thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu khổ
cứu nạn,
khi đi thanh lọc, được nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn
chính trị,
thay vì di dân kinh tế. Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp
nhận.

Trích Hai
Mươi Năm Văn Học Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập, xb
trước 1975.
Năm sinh của
Gấu, trên ghi 1938, theo thế vì khai sinh; thực, sinh 16.8.1937
Chụp những
ngày vừa tới Xứ Lạnh, tại
Montreal, lần ghé thăm anh,
[cuối 1994 hoặc đầu 1995]
lấy tiền Sĩ
Phú tặng
“bạn hút” cũ,
những 500 đô, nhân anh “đi” hát ở đây.
Như
lính giữa rừng
Journeys,
like artists, are
born and not made.
(L. Durrell. Chanh Chát, Bitter Lemon)
(Lãng Du, như nghệ sĩ, có ở
trong máu, chứ không làm ra được).
Tôi vẫn thường nghĩ, đi chỉ
là để mở ra cõi trong riêng tư, khi đứng trước một cõi ngoài đổi khác.
Thú vị
hơn, nếu bạn đồng hành là một cố nhân tha phương hạnh ngộ.
Tôi và N. ngồi giữa vườn cây
trong lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời gian dẫn về một làng da đỏ
tại vùng
Bắc Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn minh, lối sống của họ, nay
được thu
nhỏ lại để trình bày cho du khách. N. trước năm 75 là một giáo sư trung
học,
ngoài ra còn viết văn, làm xuất bản. Thời gian tụi này ở trại cấm Thái
Lan, anh
thường gửi tiền, và cùng một vài người bạn can thiệp, vận động mong cho
tụi này
qua được thanh lọc. Tuyển tập truyện ngắn do anh xuất bản năm 1974,
trong có
bài, hình ảnh cùng vài dòng tiểu sử tụi này tình cờ gặp được trong đám
người
chung số phận, không ngờ thật hữu ích khi thanh lọc. Tấm hình Cao Lĩnh
chụp vào
một buổi chiều tại Sở Thú Sài-gòn là tấm hình độc nhất đánh dấu những
ngày cá
nhân tôi mê mải với những chữ.
N vẫn còn phong độ, nghĩa là
vẫn đẹp trai, vẫn còn những nét lỉnh kỉnh như cái ống vố, cách bập bập
thuốc,
như để giữ ấm hơi đời, ở cõi người lạnh giá này. Và anh vẫn còn đam mê
làm nhà
xuất bản, vẫn muốn có dịp qui tụ một số cây viết, trong một cuốn sách
có những
dòng chữ đẹp như những bức hình của Cao Lĩnh ngày nào. Tôi nói với anh,
có
những cuốn sách tạo nghiệp. Cuốn trước, trong lời tựa, anh coi đây là
vốn liếng
một đời cho quê hương, cho bạn bè. Chưa đầy một năm, Cộng Sản thôn tính
Miền Nam.
Bây giờ anh lại lăm le làm
xuất bản, biết đâu cái nghiệp lần này khá hơn, tụi mình lại có dịp ngồi
lai rai
ở Quán Cái Chùa, tại Sài-gòn.
Tôi vẫn còn nhớ cái nhìn của
anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ và Cao Uỷ Tỵ Nạn
mướn làm
thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn dừng lại rất lâu trên
khuôn mặt
tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ anh tin. Có vẻ anh thông
cảm. Có
vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một chế độ so với sức chịu
đựng của
con người.
Trong tuyển tập có một truyện
ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp",
của Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở
đường Gia
Long, để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng
chữ Tây,
chép từ cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn
thường tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20
tuổi
vào những năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều
triết
thuyết, chủ nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu
luận... Những
đàn anh chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về
sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt
những bờ
của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ
anh tính
đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ
Hữu Tường
đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh
Tâm Tuyền
khi viết trên mục Tạp Ghi của
nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ
Hữu
Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh
Tâm
Tuyền lúc đó
còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn.
Truyện được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Tôi cũng nghe nói. chị NG.
phu nhân anh N. là một ca sĩ. Lần trước tụi này lên Montreal, thời gian quá ít ỏi nên
không được
hân hạnh nghe tiếng hát của chị.
Tôi nói với N., cũng vẫn một giọng đùa
đùa,
chỉ mong chị đừng có tiếng hát của cô Tơ trong Chùa Đàn.
"Nguyệt giãi tàn
nhang...ư... Con sông hồ nước biếc... Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh
mệnh chỉ
còn dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là đời
người
đang cúi xuống cái gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn".
Cũng lại một cuốn sách tạo
nghiệp, Chùa Đàn. Đọc lại tôi
thấy tiếc hùi hụi, phải chi Nguyễn Tuân
đừng thêm
vô Mưỡu Cuối.
Cũng vẫn chuyện Ngày Mai ăn bánh khỏi trả
tiền, trong một
Thị
Trấn Ngày Mai, của một Ngày Mai Ca Hát. Ngày Mai to lớn hơn, huy hoàng
hơn...
Vâng, cũng những bài xưa cũ
đó, buổi tối tại một nhà hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG.
Cô Tơ đã
chết
rồi, bây giờ những bài hát không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch
quá khứ,
đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu
lá thấp mà thôi...".
Roberto
Bolaño
Scholars
of
Sodom

"Vào thời
gian đó, tôi hai mươi tuổi và tôi khùng/
Tôi mất một
xứ sở và tôi [làm thơ, mê gái, đi nhà thổ...] được một cơn mộng"
Tuyệt cú.
Làm nhớ Phạm
Công Thiện, Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn.
GCC có 1 bạn
văn, ít tuổi hơn Gấu, thường tự coi là em, nhưng Gấu “mày tao” tuốt, tuy tự coi là đàn em nhưng viết văn trước cả đàn
anh, ngay từ thời còn đi học đã có truyện ngắn đăng dài dài trên Tiểu Thuyết
Thứ Năm. Anh viết thứ truyện ngắn rất dễ đọc, rất mùi, rất có
đầu đuôi, cộng
thêm 1 thứ
văn phong rất học sinh, thành thử ăn khách lắm.
Sau đi lính, sĩ quan,
cũng rất
hay ngồi Quán Chùa, cái thời
GCC còn hách lắm, hai ba đầu lương,
thành thử ít
khi chịu để cho bạn, quí hay không quí, đàn em không đàn em, trả tiền
cà phê.
Anh bạn vẫn thường kể lại, ngay cả bây giờ, mỗi khi gặp lại ở Tiểu Sài
Gòn, hồi
đó, mỗi lần ra Quán Chùa,
thấy anh ngồi đó, là.. yên tâm rồi!
Anh rất mê
ngồi Quán Chùa, để gặp những
đấng như ông anh nhà thơ, hay đám "tỉu thít
mới".
Không
phải là anh không thể trả tiền 1 ly cà phê, nhưng hồi đó, chưa sống
theo kiểu Mẽo,
ai trả tiền cà phê người đó.
GCC viết lại
như vậy, để hiểu là, cái sự bạn quí bỏ hết công việc làm ở Mẽo qua Trại
Tị Nạn
thăm để nhét vô túi 10 đô, nó quá sự tưởng tượng của GCC.
Đó là sự thực.
Bạn đi quá
trễ. Hết mùa biển động rồi!
Ui chao, GCC đọc những dòng thư của “cũng bạn quí”
một thời, 1 trong 5 nhà văn nữ số 1 Sài Gòn,
mà chỉ tính quay về xin VC tha tội!
Chỉ đến khi đọc
câu của Brodsky, và, đọc những dòng của VP viết về nhóm ST, MT viết về
bạn quí
TTT, GCC mới vỡ ra, và "ơ rơ ka" 1 tiếng, đúng rồi, với những kẻ đã đi
thoát, thì những kẻ ở lại đều… ngỏm rồi!
As a theme, death
is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is
frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that
denote the
subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the
alive)
over minority (of the dead). Akhmatova would have none of that. She
particularizes her fallen instead of generalizing about them since she
writes for
a minority with which it's easier for her to identify in any case. She
simply
continues to treat them as individuals whom she knew and who she senses
wouldn't like to be used as the point of departure for no matter how
spectacular a destination.
Joseph Brodsky: Anna Akhmatova Poems' Introduction.
Như là 1 đề
tài, cái chết đúng là 1 thứ thuốc thử màu đối với đạo hạnh của một nhà
thơ. Cái
thứ văn chương "ai điếu" thường được sử dụng để thực tập cái trò tự
thương thân,
trách phận, hay cho những chuyến đi siêu hình, chúng làm lộ ra sự ưu
việt ngầm,
của kẻ sống
sót đối với nạn nhân, của đám đông (còn sống nhăn) đối với thiểu số
(những người
đã chết).
Hà, hà!
Anh bạn
này
là học trò của Phạm Công Thiện, thời ông dậy ở Đà Lạt.
Anh kể 1 giai
thoại về
PCT. Rất hay đi xóm, và tiếng đồn đến tai ban giám hiệu trường. Thế là
một bữa,
ông kêu thằng học trò khệ nệ khiêng giùm mớ sách vở [nhiều lắm, theo
anh kể], dọn
nhà đến khu phố đèn đỏ.
Thế là khỏi đi
xuống xóm nữa!
|
|