Nhật Ký
|
Trang NGUYỄN
LƯƠNG VỴ
“…Đọc thơ
Nguyễn Lương Vỵ và đăng
thơ Vỵ từ những ngày Khởi Hành ở trong nước, từ 1969, cùng với những
Nguyễn Tôn
Nhan, Nguyễn Đạt, Trần Hoài Thư, Nguyễn Bắc Sơn, Phạm Thiên Thư, Phạm
Văn Nhàn,
Ngô Nguyên Nghiễm, Phạm Ngọc Lư, Lê V Trung… những người mà sau nầy
nhìn lại, tôi
vui như nhìn lại những cánh diều cùng thả lên trời một ngày quá khứ,
bất chợt
thấy diều bay lồng lộng thinh không một chiều xa vắng xứ người, tôi tìm
lại được
niềm vui cũ, mà mới, niềm vui bằng hữu văn chương muôn thuở; hay một
thoáng ngậm
ngùi lúc diều bay thẳng về mặt đất, như vừa rồi tưởng thấy cánh gió
băng sương
của Nguyễn Bạch Dương, của Nguyễn Phan Thịnh. Mai ta về
khóc ngất dấu sương tan. Câu thơ ấy của Nguyễn Lương Vỵ
trong bài Một Mình, bài thơ dài đến mười
trang; với tôi, đây là một bài tiêu biểu của nhà thơ: lọc chữ chọn vần
nhưng vẫn
đùa thảnh thơi; đời chết đôi lần mà vẫn vui, tuy kiềm kiệm; vũ trụ ảo
hóa mà có
khác chi em tuyệt cùng.
Nhưng sao lại Hòa Âmmmm? Hòa âm thế nào?
Đêm rất sâu nên đêm trầm khói sương. Tim
buốt âm nên âm rền thấu xương. Đó là một âm trong các Hòa
Âm âm âm âm của Nguyễn Lương Vỵ, một tập thơ mà thi-ngữ nhiều sáng
tạo, văn-phong khoáng đạt, tạo một phẩm giá thi ca riêng, tôi tin nó sẽ
tồn tại
lâu dài trên văn đàn và trong lòng người đọc.”
Viên Linh [Khởi Hành số 130, Tháng Tám, 2007]
Truyện ngắn đầu tiên
được gửi đến tạp chí Văn - lúc đó anh
Trần phong Giao làm tổng thư ký - không được chọn đăng; nhưng cũng
truyện đó
khi gửi sang tạp chí Vấn Đề của Mai Thảo thì được chọn. Bắt đầu như vậy
không
thấy có khó khăn gì, thấy rất vui. Truyện có tựa là Chủ Nhật, được viết
năm
1968 nhưng mãi mấy năm sau mới dám gửi đăng.
Nguồn
Quả đúng như Gấu nhớ, đây là truyện đầu tay của bà này. Bảnh hơn Nhà có cửa khoá trái nhiều.
*
Theo như tôi còn nhớ, truyện ngắn đầu tay của bà là về một người đàn
ông có vợ, nhân bữa chủ nhật đi thăm một người đàn bà không chồng nhưng
có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ.
Chuyện chỉ có vậy, nhưng trong Sài Gòn vẫn còn đọng lại ở trong tôi, có
hình ảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác
trước tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm.
Lạc Đạn I
Cuộc Đời và Thành Tựu Khoa
Học của Joseph-Louis Lagrange,
Toán
Gia Lỗi Lạc Nhất của Thế Kỷ 18
Nguyễn Xuân Vinh
Nguồn
"Bán kinh...." là một những tính chất của hình ellipse, Kepler tìm ra,
khi dùng kính thiên văn quan sát sự di chuyển của mặt trăng, và từ đó
suy ra quỹ đạo của
nó.
"Sự chúc dữ, hay lời nguyền rủa của hình tròn", kéo dài hai ngàn năm,
theo Koestler,
bởi vì, từ thời Pythagore, nhân loại đã tưởng tượng ra điều Kepler tìm
thấy, nhưng do quá mê cái vòng tròn, lại bỏ qua! (1)
Vòng tròn, cũng là một ellipse, khi hai tiêu điểm tiến lại gần nhau,
nhập thành một, và là tâm của nó.
Dân Mít chúng ta cũng đang bị nguyền rủa bởi cái vòng tròn, do một tiêu
điểm bị xoá mất tiêu, chỉ còn có một!
(1) Xin coi Những Người Mộng Du của Koestler.
Dân Mít chúng ta có lẽ nên đọc ["Tôi
đặc biệt lưu ý, các nhà văn chúng ta phải đọc"] Những
Người Mộng Du, vì một trong những
trọng điểm của cuốn sách là bàn về niềm tin và lý lẽ, faith and reason.
Chính cái niềm tin mù quáng "đường ra trận mùa này đẹp lắm", đã đưa
đến chiến thắng thần kỳ, nhưng do thiếu lý lẽ, cho nên, một khi khám
phá, niềm tin chỉ là dối trá, thì hậu quả tai hại của nó khủng
khiếp khôn lường.
Kepler khám phá ra, mặt trời là trung tâm thái dương hệ, không phải
trái
đất, khi dựa vào niềm tin tôn giáo: Mặt trời, giống như Chúa, ban
phát ánh sáng [hồng ân] đến cho muôn loài.
*
Gấu đọc Những Người Mộng Du
vào lúc mới lớn, mê lắm. Nhưng, tất nhiên, sau Đêm giữa ban ngày, được coi như đòn
"cách sơn đả ngưu" đánh vào chủ nghĩa Cộng Sản. (1) Một lần ngồi
Quán Chùa với ông anh, chuyện loanh quanh bên ly cà phê, hoá ra ông
cũng mê Koestler. Ông cho biết thêm, còn cuốn Tiếng Kêu Archimède [ tên
tiếng Tây, dịch ra tiếng Việt, của cuốn The Act of Creation ], cũng tuyệt
lắm! Ông nói, Koestler, vào lúc cuối đời, nhờ giam mình trong thư viện,
nên
viết được một bộ ba cuốn, đúng là một bộ kỳ thư. Hai cuốn trên là nằm
trong bộ ba đó. Cuốn thứ ba, Gấu không nhớ, là
cuốn nào, trong số những tác phẩm của Koestler.
(1) Koestler là người
gióng tiếng chuông báo tử đầu tiên cho đế quốc Cộng Sản, với Bóng Đêm
Giữa Ban Ngày [1940], như David Cesarani, trong Athur Koestler: The Homeless Mind, viết:
"Hiệp cuối của đế quốc Xô viết, xẩy ra vào năm 1989-1990, đã bắt đầu
cùng với sự xb của cuốn "Đêm hay
Ngày" [Darkness at Noon, 1940. [The final rout of the Soviet
imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon.]
Đêm hay Ngày
là tên bản tiếng Việt đầu tiên của nó, do Phòng Thông Tin Huê Kỳ ấn
hành, thời điểm 1954, cùng với vụ di cư của đồng bào miền Bắc.
Đọc Đêm hay Ngày, ngay những ngày đầu
vô Nam, Gấu chỉ còn giữ được một hình ảnh của nó. Đó là khi Rubachov bị
đồng chí tống vô tù, trong phòng giam, nghĩ tới những cú tra tấn sắp
sửa, anh "VC" nhiều tuổi Đảng hơn cả Đảng bèn dí cái đầu điếu thuốc
đang cháy bỏng vô lòng bàn tay. Đang say sưa lịm người với thú đau
thương, giật mình ngó lên, chàng thấy tên lính gác đang đăm đăm nhìn
bằng con mắt cú vọ, qua lỗ đầu ruồi (?), ở cửa phòng giam. Tên gác bèn
nhếch mép cười khinh bỉ, đóng sập đầu ruồi, và bỏ đi.
Milosz, trong cuốn sách ABC của
ông, dưới "đầu vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà thơ Aleksander Wat,
và cuộc trò chuyện của Wat với một tay cựu Bôn-sê-vích, the old
Bolshevik Steklov, liền trước khi xẩy ra cái chết của tay cựu đảng viên
đáng kính này, trong nhà tù Satarov.
Theo Steklov, những tay như Rubachov thú tội, ngay cả những tội mà họ
không hề phạm, không phải do tra tấn, mà là do quá tởm quá khứ đầy ứ
những tội ác của họ.
Và cái chuyện tự làm nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém
gì, và tra tấn là không cần thiết.
[According to Steklov, they confessed out of disgust at their own past:
they each had so many crimes on their account, that it cost them
nothing to demean themselves once more and torture was not necessary].
Tác phẩm của DTH, theo Gấu, là phải được đọc trong cái dòng suy tưởng
đó, trong cái nỗi bi đát được làm người, và trong cái ghê gớm tởm lợm,
trước những con bọ VC.
Nhật
Ký
Quanh ông Kiệt có rất nhiều thông tin “tiêu cực”. Lá thư mười năm trước
của ông gửi đến trung ương đảng đã là “chim mồi”, khiến nhiều nhân sĩ
bị bắt. Vợ ông là trùm buôn lậu. Con ông sở hữu những cơ sở kinh tế
“hoành tráng” nhất nước hiện nay. Những tài khoản bí mật ở ngân hàng
nước ngoài, v.v
[Trích bài
viết của Hoằng Danh, trên talawas]
Gấu tui sợ
rằng, trường hợp "Thư Gửi Đảng" của mấy anh già sắp xuống lỗ cũng là
cùng lý do như trên.
Đêm giữa ban ngày
Tôi nhớ trước ngày 30
tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi
rằng
(thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng
thống có
vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi
nhìn
tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút
lụi tàn
bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
*
Thế còn chế độ đương thời thì sao?
Những ông như tân bộ trưởng thông
tin & truyền thông, tuyên bố, phải cắm ở mỗi tờ báo một tên mật
vụ, như ngài chủ tịch nước, nhận xét, làm nhục
người dân, bằng cách bịt miệng, là "không đúng", tình cảnh thêm
thảm của người nông dân biểu tình, ngay tại trung tâm thành phố mang
tên Bác, trừ một thiểu số đồng bào, hay độc giả gửi thư cho BBC, ngoài
ra, cả một nước, cả một chế độ, cả một lực lượng báo chí, nhà văn, đều
mù, không nhìn thấy, thì là những biểu hiện gì, giờ phút gì?
*
Liệu, đây là biểu hiện lụi tàn, của một diễn đàn? NQT
*
TTT, khi còn ở trong nước, có gửi ra hải ngoại một số bài thơ làm trong
tù, ký tên là Trần Kha. Gấu ra sau ông, nhưng nhờ đọc một phê bình gia
mới biết sự kiện này, ông ta phán, tại sao ông này hồi còn ở trong nước
thì gửi thơ ra hải ngoại, bây giờ, ra ngoài này rồi, không chịu làm thơ
nữa, để cho ông ta... xoa đầu, tiếp?
Bởi vậy, Steiner rất tởm mấy anh phê bình gia không biết viết văn, đám
hoạn quan sống bám vào thiên tài, không biết cơn hung hãn, "Em đã biết
tay anh chưa?", tức, dục vọng cương cứng mong được trường tồn, Le Dur
Désir De Durer [toàn vần Đ.. thôi à], tức, hành động "hùng hục
sáng tạo".
Tuy nhiên, Steiner, do không phải là độc giả của Kim Dung, nên không
biết "phép lạ" của Đông Phương. Với những nhà văn nhà thơ tầm phào, chỉ
có mỗi một cách để trở
thành giang hồ đệ nhất nhân, là, vung dao tự thiến!
*
30 Tháng Tư 1975, bao nhiêu nước chẩy qua cầu, vậy mà còn giữ được một
kỷ niệm quí giá như thế, về một chi tiết quí giá như thế, đáng phục
thật.
Thảo nào Steiner coi chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương.
Nhưng ông nói thêm, nếu không phải Thượng Đế, thì chắc chắn, là Quỉ.
Đối
Sầu Miên
Phê
Hai Trầu & NNT
Xâu con
mắt luồn kim tìm chiêm bao
Người Về
Trang NNT
Đọc NNT
Gấu,
nhà văn
"Je serai ta femme".
LH 16.8.1967
... sự sống sót của chàng là một
điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã
chẳng tới được nhà thương đêm đó. Thời gian
Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
*
Cuộc Tình Bỏ Đi kết thúc
không đến
nỗi bi thảm như Một Chủ Nhật Khác.
Cô Thùy, tức Nicole của Scott, sau tái giá.
Nàng nói với ông chồng sau:
-Tôi yêu Kiệt và chẳng bao giờ quên anh ấy.
Ông chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ nhiên là như vậy. Làm sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em
phải quên anh ấy?
Đà lạt
*
Không ai kèn cựa với người
đã chết.
Mà em muốn nhắc để cám ơn anh.
Đã rèn luyện em trong cay đắng của đời.
Và đã thương yêu em như một Bà Trời.
Văn Tế
"C'est l'âge où tout le
monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời mà đứa nào cũng 26 tuổi"],
Gertrude Stein diễn tả những năm tháng
tuyệt vời băng đảng Mẽo của bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở
Paris.
Gấu cũng thể nói như vậy, về thưở mới lớn của mình, thập
niên 1960, và của băng đảng 'tiểu thuyết mới' ở Sài Gòn.
Thời của Stein là
'thế hệ bỏ đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp bị cuộc
chiến làm thịt.
*
Thế hệ bỏ đi, cuộc tình bỏ đi.
Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc
gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần,
"em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục
vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc.
Stein sử
dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là
một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị
thương tổn, không còn hoạt động được nữa.
*
Ui chao, xém một tí, là súng của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn
hai trái mìn claymore ở bờ sông Sài Gòn!
*
Hình như là Fitzgerald, nói về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì
thành công, còn tôi, vì thất bại.
Hề Charlot cũng đã từng nói tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng
vì chẳng ai hiểu ông, còn tôi, ai cũng hiểu.
|
|