Do trục trặc disk
space, hình ảnh và album phải lấy xuống.
Sorry. Tin Văn
Kierkegaard
retour aux classiques
par Linda Lê
UN DYBBUK AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Singer và thế thân của ông
Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio
Magris chào mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện cổ gần
gũi với "những bậc thầy vô ngã, vô tên của quá khứ, những nhà văn lớn
lao giống như tất cả mọi người, và chẳng giống một người nào, bởi vì họ
biến thành những con người nói bằng bụng, thay vì bằng miệng, và những
nhân vật đa dạng, những hộp cộng hưởng, cho mọi thứ tiếng tơ đồng, của
cõi sống."
Như con quỉ cuối cùng, trong
một truyện ngụ ngôn của mình, sống bằng
cách
gậm nhấm một cuốn sách cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát, bằng
một thứ ngôn ngữ Mường Mán], Singer là một meshugah, một tên khùng, sống sót
bằng cách, rút ra từ những huyền thoại Do Thái, và những kỷ niệm về một
thế giới đã qua, lý do hiện hữu của mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm 1935, khi đó ông 31 tuổi, ông viết bằng tiếng yiddish, và cộng
tác trong việc dịch chúng qua tiếng Anh. Ông
muốn viết bằng một ngôn ngữ chết, mà sự biến mất của nó báo hiệu sự suy
tàn của nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là
một thứ dybbuk, một bóng ma,
nhìn, và không ai nhìn thấy được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong,
không phải theo
kiểu Do Thái, mà là một thứ lưu vong đụng tới con người, và nhất là,
con người-nhà văn đương thời", Claudio Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra, bằng một nỗi buồn nhuốm mầu thần bí, tính sống
động, và cơn chao đảo, của một thế giới chìm xuồng.
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
Nỗi lòng vân cẩu
Tứ tấu khúc la violetta
Hãy tím nữa những mùa
xa lắc
Xa lơ tím hết nụ em cười
Note: NLV viết kèm, mấy bài
thơ mới này có cái air 'tẩu hoả nhập ma'. Tùy anh...
*
Nhưng, nếu như thế, thì đây quả là những vần thần sầu.
Em ơi, tím đi em, tím đi em, tím... đi em!
Xa lơ tím hết nụ em cười!
Tuyệt, tuyệt!
Một kẻ lạ trong một thành
phố lạ
My First
Passeport
What does it mean to belong to a country?
Tờ thông hành đầu tiên của tôi
Nghĩa là gì, cái chuyện thuộc về một xứ sở?
Orphan Pamuk
Chúng ta phải chấp nhận
sự kiện, là, những đồ vật mà chúng ta đang
dùng, đếch thuộc về chúng ta, và xứ này, đất khác này, cũng đếch thuộc
về chúng ta.
Ôi chao, giá mà đám khùng kia hiểu được nỗi đắng cay Thổ
[tả] này!
*
Có nhiều người nói rằng
đặt cái tên Da màu nghe có vẻ tự ti.
Thật sự mình và các bạn nghĩ rằng màu da không có gì đáng để tự ti, tự
tôn, hổ
thẹn hay kiêu hãnh. Cái điều Da màu muốn gợi ý, khai phá là tạo chỗ
đứng cho
văn chương của những người viết da màu, cần để cạnh và song song với
văn chương
da trắng, ngang hàng với nhau.
Trích RFA
Cái sự ‘cần để cạnh và ngang hàng với nhau’, tự nó đã nói
lên mặc cảm tự ti rồi. Cái việc, cứ ị ra được cục nào dịch vội qua
tiếng
Anh, là cũng đã nói lên mặc cảm tự ti, của tiếng Việt, so với tiếng Anh
rồi.
Điều đám khùng này đang làm, thế giới cũng làm, nhưng khác
hẳn: họ coi đây, là văn chương so sánh, với sự tham dự, 'để cạnh nhau',
của tất
cả các dòng văn chương.
Hơn nữa, cái thứ tiếng Việt viết không nên thân, được dịch
bằng cái thứ tiếng Anh thông dụng, làm sao trở thành văn chương?
*
Thứ tiếng Anh thông thường.
Thí dụ, câu 'hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi', rất dễ hiểu,
nhưng chứa hai từ, rất nặng ký, là kiếp, và thân.
Bản thân chữ bụi, cũng nặng
lắm, kiếp bụi, tu bụi, cát bụi mệt mỏi, quá khứ tiếng Anh của nó cũng
chẳng
thua, ['Hãy nhớ tôi, hạt bụi thầm thì', “Remember me, whispers the
dust”. Peter
Huchel, Brodsky trích dẫn, trong
Ca
Ngợi Buồn Phiền, In Praise of
Boredom].
Dịch qua tiếng Anh, thành ‘Which grain of dust became my flesh’, thì
thường
quá, mất hết quá khứ văn hóa Việt, của những từ như kiếp, thân, bụi.
Thành thực mà nói, Gấu không biết dịch thế nào, nhưng giá như làm bật
ra được cái ý 'kiếp bụi nào hoá thành thằng cha họ Trịnh này', chắc là
'bảnh' hơn chăng? (1)
(1)...
Ung Thư - Nhưng
hãy chấp nhận kiếp bụi vô thường, như cục ung thư, sống với
nỗi chết âm ấm ở trong lòng bàn tay (Mais accepter vivant la vanité de
son
existence, comme un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la
main.
Malraux)
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Trong khi đó, những câu văn hề tuồng, như, “Chiến
tranh,
ngay cả ở hồi kết cuộc, vẫn không nhanh chóng giảm thiểu những tác hại
của nó.
Trong và sau chiến tranh là lưu đày. Gốc rễ bị bật tung, thân bị cắt
ngang, đốn
gục. Cái mang theo là những manh mún của một điều đã hoặc đang chết.”,
dịch
sang tiếng Anh để nhát ma Anh à?
*
Gấu này đã có lần trình ra là, văn chương mạng hải ngoại rất
quan trọng, một khi trong nước vẫn còn kiểm duyệt. Viết, đối với chúng
ta, không
phải là được để cạnh, để ngang hàng với da trắng, mà là để cho trong
nước đọc,
cái phần mà nhà nước không cho đọc, chỉ về văn chương thôi, của người
Việt, và nhất là, của thế giới, khoan nói đến
chuyện chính
trị.
*
Me xừ PN, Gấu đã từng gặp, ngoài đời thì cũng được, nhưng trong văn
chương, theo Gấu, chưa có gì. Có thời gian, tay này lo phần net cho tờ
VH, hình như vậy, và khi Gấu gửi bài viết
Nước Cờ của Hư Trúc cho VH, tay này
bèn gửi cho VHNT đăng, chẳng thèm hỏi ý kiến của Gấu. Thời kỳ đó, Gấu
chưa biết net là gì.
Chỉ đến khi viết cho VHNT, tình cờ coi phần 'archives', Gấu mới biết,
và bên cạnh bài viết, là cả một bàn tròn văn học, của một số thành viên
trong ban biên tập.
Thú vị thật.
*
Đồ dùng, ngôn ngữ, xứ sở đều là của người, đếch phải của mình, Orphan
Pamuk nhớ lại kinh nghiệm thất bại của chuyến đi đầu tiên ra ngoài
Istanbul.
Với những nhà văn như tác giả
Tàn
Ngày,
Kazuo Ishiguro, họ đem đến cho ngôn ngữ của người, cái mà nó chưa có,
hoặc có mà chính nó cũng chẳng hề biết, chính vì thế mà giới phê bình
coi ông này Ăng lê hơn cả Ăng lê, và bộ môn tiểu thuyết viết bằng tiếng
Anh đã giầu có thêm lên rất nhiều, nhờ di dân như họ.
Cái thứ tiếng Anh chỉ để sử dụng trong quan hệ hàng ngày không thể nào
trở thành văn học được. Cái phần gốc, tiếng Việt, đã lem nhem, cái phần
ngọn, tiếng Anh, như thế, người sử dụng lại chưa làm sao thổi vô trong
đó cái gọi là căn cước Mít, [Gấu nhớ đến câu Allan Massie khen
Ishiguro: Each of his novel has an unmistakle identity: Mỗi một
cuốn tiểu thuyết của ông là một căn cước không thể nào lầm với ai
đưọc], cái việc làm của nhóm da mầu không khùng điên, thì cũng cố đấm
ăn xôi.
Gấu này chẳng hề có một chút tư thù, đố kỵ, hay gì gì với nhóm này,
nhưng thành thực khuyên đa số trong nhóm: hãy viết cho thật hay, hãy có
tác phẩm, rồi đặt chúng song song, bên cạnh, ngang hàng với da nào cũng
được!
Giả như viết bằng tiếng Việt, thì cũng có người dịch nó sang tiếng nước
người, đừng lo, đừng nôn nóng!
Tưởng
nhớ Thanh Tâm
Tuyền
Dọn
Le Devoir de l'écrivain
« le devoir de l'écrivain
est de rapporter l'horrible vérité,
le devoir civique du lecteur est d'en prendre connaissance »
"Bổn phận nhà văn là trình ra sự thực ghê rợn, bổn phận công dân của
độc giả, là biết đến sự thực này"
Doris
Lessing
Gulag, a history
Ba
thằng lăng nhăng
Ba
người khác
Gấu,
nhà văn
Thảo
Trần lại là dân miệt vườn thứ thiệt, sinh quán Cai
Lậy, Mỹ Tho, và là bà xã của NQT. Đây tuy là tập truyện đầu tiên của
bà, nhưng đã mang đầy sức
mạnh riêng tư, trong một dòng văn cũng rất là
Nam Bộ trong kiểu rất là Sài Gòn.
Phan Tấn Hải đọc NDSCVPN
Thú thật, hách, phách, lối, và hỗn như Gấu, không viết nổi một câu
bảnh, và
đúng, và thật galant, như trên, về Gấu Cái.
Cám ơn bạn hiền PTH.
*
Ôi chao, Gấu lại nhớ, một lần Gấu Cái than, anh coi những người đàn bà
khác, như trời, như thánh nữ, tại sao lại lấy một người 'xấu' như tui?
Và Gấu, cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, đã trả lời, có thể, anh
thiếu, và cần ba cái xấu, của em!