Dọn
Ý nghĩa của phim hoàn toàn nằm trong tên của phim. Đây là một cuộc nội
chiến được đẩy vào trong nội dung thế giới, ở phần hậu bán thế kỷ 20.
Bảo là nội chiến, như ĐL nhận định, đúng, nhưng không hoàn toàn như
vậy. Trịnh Nguyễn phân tranh được ‘remake', làm lại, lập lại, với hàng
rào điện tử McNamara thay cho Lũy Thầy, súng AK của Tiệp Khắc, M.16 của
Mẽo, thay cho cung tên.
Súng ống ngoại như thế, không giản dị là nội chiến được.
Đây là một ‘phim trong phim’. Phần nổi của nó, là ‘remake’
Trái tim
của Bóng đen, với những Kurtz, Marlow và cùng với nó, là chủ nghĩa
soi sáng, khai hóa của
nửa phần đầu thế kỷ 20. Phần chìm của nó, cũng vẫn
Trái tim của
bóng đen, nhưng cùng với nó, là lý tưởng Cộng Sản lồng trong giấc
mơ thống nhất.
Bảo rằng một cuộc nội chiến với sự xúi giục của ngoại bang, là sai,
chính vì thế, Coppola chỉ sử dụng xúi giục, tham dự như mặt nổi của
phim, ra ý: Trái tim của bóng đen là của chúng mày, không liên can gì
tới chúng tao, tức Mẽo trong có Coppola, Đồng Minh, những người anh em
XHCN Trung Quốc, Liên Xô.
Bảo rằng, đây là một cuộc chiến ngu xuẩn, như DTH, thì sai.
Nhục nhã, có lẽ đúng hơn!
Dọn 2
Coppola
Apocalypse Now
Tận thế là đây
Bất giác Gấu nhớ một câu chuyện trong Liêu Trai, về một ông
hổ, một bữa buồn quá, hóa thành một anh học trò, và gặp một danh sĩ.
Ông
hổ này được nghe những lời vàng ngọc, mê quá, cứ lẽo đẽo theo
hầu, cho
tới một bữa, danh sĩ gặp bạn.
Thế là một bàn tiệc được bầy ra, thi nhau
mà nhả ngọc phun châu, ông hổ nghe một hai câu, còn cố chịu được, nhưng
nghe mãi
hết chịu nổi, bèn năn nỉ, thôi, thôi, đủ rồi. Mấy thằng khùng kia, nhất
định
không chịu thôi viết, thôi dịch, thôi diệt. Ông hổ phát điên lên, thế
là bèn rùng
mình một cái, biến lại thành hổ, làm sạch đám khùng, rồi cúi lạy danh
sĩ nhảy
vọt vô rừng.
Ôi chao, giá mà thời này, cũng có một ông hổ như vậy!
*
Cứ tội ác gì cũng đổ cho Mẽo hết, đến một lúc nào đó Coppola, chẳng may
vớ được cục tiếng Anh, bèn, như Hitler, vặc lại, nếu không có Lò Thiêu
làm sao có nước Israel,
nếu
chúng tao không nhảy vô Miền Nam, làm sao chúng mày có lý do để mà đánh
cho Mỹ cút Ngụy nhào, giải phóng Miền Nam,
thống
nhất đất nước, qui về một mối, cùng nhìn về…
Trái
tim Hà Nội?
Bởi vì, không có người Mẽo can thiệp vô Việt Nam, không có
cách chi kết thúc cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, với phần thắng nghiêng
về Đàng Ngoài.
Có lần Gấu phán 'ẩu' là, Miền Bắc phải tìm đủ mọi cách cho anh Yankee
mũi lõ nhẩy vô Việt Nam, thì mới có lý do phát động, activate, chân lý
nước Việt Nam là một, và từ đó mấy anh Yankee mũi tẹt con cháu họ Trịnh
ngày nào mới có cơ hội làm thịt Miền Nam.
Đây là thảm kịch Việt Nam, thảm kịch nồi da xáo thịt. Bởi vậy Coppola
mới ngạo nghễ
tuyên bố, như ĐL trích dẫn, “không phải là về Việt Nam — nó là Việt
Nam.”
Ý nghĩa "nó là Việt Nam", là như trên.
Không phải tự nhiên nhiều người, coi đây là đỉnh cao sự nghiệp
Coppola:
To many,
Apocalypse Now
represents Coppola's highpoint, a
feat he has been unable to equal or exceed ever since.
Nhưng cái giá phải trả, cũng khá đắt, như ông nói, sau khi quay phim
xong: ".... từng chút, từng chút, chúng tôi biến thành khùng". ["We
were in
the jungle, there were too many of us, we
had access to too much money, too much equipment, and little by little,
we went
insane."
]
Như Littell, tác giả
Les
Bienveillantes, khi muốn nhập thân vào Cái Ác:
Nhập vai thì cũng dễ, ra mới khó! (1)
(1) Gấu Cái cảnh cáo: Mi cứ viết hoài như thế này, thì mi cũng khùng
thôi.
Một độc giả gửi sách tặng, 'ra lệnh', đọc 'cái này' (2) đi, tẩu hoả
nhập ma đến nơi rồi!
(2) Cám ơn, sẽ đọc. NQT
Ông là Đồ
Phổ
Nghĩa, tôi đoán thế
Tới Phi châu, mục đích chính là để tìm kiếm một thế giới xa
lạ (exotic), của những giấc mơ ấu thời; ông trở về với một giấc mơ mới:
viết
Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness, điều được ông mô tả: cuộc tranh giành
của cải
xấu xa, ghê tởm nhất, làm méo xệch lịch sử lương tâm nhân loại (that
ever
disfigured the history of human conscience).
*
Trường phái văn chương “da mầu”, có vẻ như gồm đa số là những người
rành tiếng Anh, [tiếng Anh, không phải văn Anh], chắc đều tốt nghiệp từ
những
trung học, đại học hải ngoại.
Có thể vì thế, họ rất dở tiếng Việt.
Thí dụ, một ông trong
ban biên tập khen bản dịch của một thành viên, hay người góp bài, là...
uyên
bác!
Một bản dịch uyên bác! Quái đản như thế đấy.
Dịch cần trung thực, hoặc, vượt lên trung thực, để sáng tạo,
một lần nữa, nguyên tác.
Làm sao lại có bản dịch uyên bác được?
Uyên bác, theo nghĩa, phịa thêm ra, hoặc, cung cấp cho bản dịch những
tri thức, những sự kiện... không hề có trong nguyên tác?
Bất giác, Gấu nhớ, khi mới ra ngoài này, tình cờ nghe một cô
xướng ngôn viên đọc tin
về một
cuộc hội họp: có sự tham dự của đa số những nhân vật ‘tai tiếng’ của
cộng đồng!
Cô lầm ‘tăm tiếng’ với ‘tai tiếng’.
Gấu sợ mấy ông da mầu cũng lầm ‘uyên bác’ với một từ nào đó.
"Nhiều rác" chăng?
*
Tiếng Việt thì như vậy, còn tiếng Anh?
Không dám ý kiến.
Tuy nhiên, có vẻ như những sáng tác bằng
tiếng Anh, của thế hệ thứ hai, thứ ba… của người Việt hải ngoại, chưa
có gì ghê
gớm, và chính họ, chắc cũng cảm thấy như vậy.
Họ chưa làm được điều, ‘làm giầu’ tiếng Anh, bằng những vốn
liếng từ những nền văn hóa khác, và, trong khi làm như vậy, họ còn làm
bật ra, một
bản sắc riêng của từng cá nhân.
Ngắn gọn, chúng ta chưa có một Kazuo Ishiguro, thí dụ vậy.
Allan Massie viết về ông:
[If Wilson and Swift may be considered quintessentially
English], then Kazuo Ishiguro [and Timothy Mo] offer evidence of how
the
English-language novel is now enriched from a diversity of cultures.
The former
is of Japanese extraction, the latter of Chinese, though both were
educated in
England.
Ishiguro's three novels -
A
Pale View of Hills (1982), An Artist of the
Floating World (1986) and The Remains of the Day (1989) - have all been
distinguished by an exquisite precision; he is a writer who works
scrupulously
within self-imposed limits, achieving his effects by understatement and
the
adroit deployment of his material. Each of his novels has an
unmistakable
identity; yet he displays his virtuosity in his use of a
different
narrative
voice in each. The Remains of the Day, for instance, is narrated by an
elderly English butler. In
his portrayal of this character, so different from himself, Ishiguro
shows
himself a pure novelist.
The
central question which occupies Mr
Stevens, the
narrator, is `what makes a great butler?'. This may seem an
extraordinary
question for a young novelist to pose at the end of the twentieth
century; yet Ishiguro uses it in order to be able to ask the far more
important question of how a man's life is justified.
Graceful, humorous, subtle and enquiring, Ishiguro is a
writer who impresses by his willingness to submerge his own personality
and by
his fidelity to his material. Each of his novels is thoroughly and
perfectly
composed; the proportions are always seemly. They acquire a strength
and
authority from Ishiguro's acceptance of physical realities and from the
exactness of his perceptions.
*
`What makes a great butler?: "Cái gì làm một ông quản gia, lớn"? Từ một
bận tâm như vậy, mà đưa đến, làm thế nào chứng nghiệm đời người,
thì quả là khác thường, extraordinary, thật.
*
Cái gì làm một anh Mít viết tiếng Anh, lớn?