Nhật Ký
|
Jen & Mom
Trang Thơ
Nguyễn Tất Nhiên
Thơ Nguyễn Tất Nhiên, download
từ trên net, còn
một số lỗi chính tả, chưa kịp sửa.
Mong lượng thứ.
Trân trọng. NQT
Nòi Tình
Valéry phán,
hình thức, thể, dạng... tốn kém lắm.
Với
thơ tự do, là cả cuộc chiến tiếp theo sau nó, mà nó đã ngửi ra được mùi
vị của
máu.
Cái gọi
là tân hình thức, theo tôi, còn tốn kém hơn nhiều.
Tuy nhiên, đối
với mấy ông làm thơ tân hình thức, ở hải
ngoại, 'tất nhiên', chẳng tốn gì!
*
Theo Barthes, [như đoạn tiếng Anh tiếng U dưới đây cho thấy, khi thông
báo sự trở về của tay làm thơ], Cõi Thơ có ba sư phụ.
Và cứ theo như ông thứ ba Jakobson phán, thì, một khi bạn sờ vô bài
thơ, mó máy nó, mân mê nó, miệng lẩm bẩm, không biết cái này được làm ra như thế
nào, how is
this made? , thế là, nó khác đi, và, có một
cái gọi là tính thơ, poetic,
xuất hiện.
*
Một khi bạn, thay vì nói, tình cảm,
thì nói, cảm tình, lập tức
thơ xuất hiện, và cùng với nó, là một ý nghĩa khác, về cõi thơ, cõi đời
thường. "Tình cảm", nếu phải dịch sang tiếng nước người, có thể dịch
bằng
chữ "sentiments". Nhưng "cảm tình", nghĩa của nó gần với chữ "êu":
Thằng đó có vẻ có cảm
tình với mi đấy, câu này có nghĩa, coi bộ thằng chả mết mày.
Theo như Gấu hiểu.
*
Anh
có khỏe không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và Yanni?
Em gửi anh
ba bài thơ mới nhất nhé, anh đọc và chia sẻ với
em.
Thỉnh thoảng, em vẫn nghĩ tới anh, và nhớ là anh rất hóm
và
gần gũi
Thơ
Trẻ I
Món quà
tuyệt vời
The Return of the Poetician
When he sits down in front of
the literary work, the
poetician does not ask himself: What does this mean? Where does this
come from?
What does it connect to? But, more simply and more arduously: How is this made? This question has
already been asked three times in our history: Poetics has three
patrons:
Aristotle (whose Poetics provides the first structural analysis of the
levels
and parts of the tragic oeuvre), Valery (who insisted that literature
be
established as an object of language), Jakobson (who calls poetic any message which emphasizes
its own verbal signifier). Poetics
is therefore at once very old (linked to the whole rhetorical culture
of our
civilization) and very new, insofar as it can today benefit from the
important
renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là một tác phẩm văn học, người làm thơ không
tự hỏi: Cái này nghĩa là gì? Cái này đến từ đâu? Nó móc nối tới cái gì?
Nhưng, đơn giản hơn, và cũng thật hung hăng con bọ xít hơn: Cái này được làm ra như thế nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra ba lần rồi, trong lịch sử của chúng ta:
Cõi Thơ có ba ông Trùm: Aristotle [tác phẩm Thi Học của
ông Trùm này cung cấp bản nghiên cứu thứ nhất, về cấu trúc
một bi kịch, với đủ
mọi lớp lang, phần đoạn của nó], Valery, [ông này cứ phán đi phán lại,
rằng, văn chương được thành lập như là một đối vật của ngôn ngữ],
Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi thơ đấy", bất cứ một thông điệp
nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng nó]. Cõi Thơ, như thế, cùng một
lúc, thật là xưa, [do
mắc mớ tới trọn cả nền văn hóa tu từ của văn minh của chúng ta], và
thật là mới, do việc đổi mới quan trọng của những môn khoa học về ngôn
ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó đem lại cho Cõi Thơ.
Nhà
văn - Thứ lương tâm đồng loại có thể tin tưởng
- Và bây giờ, cho phép tôi
tò mò tí chút: Ông vẫn còn thu gom, những mẩu chuyện khôi
hài, tiếu lâm, từ báo chí đương thời, như ông đã từng làm như vậy, và
đã được in ở trong Những Năm Học
Nghề Của Hề Auguste, như là
một cách nhằm minh họa một thời đại đã qua đi? Nếu, như tôi nghi ngờ,
ông trả lời, Đúng như thế, thì, xin ông cho độc giả vài mẩu nghe chơi?
Tưởng niệm
Trịnh Công Sơn
Ba nhạc sĩ của một thời, thời
của chúng ta, mỗi ông là một số mệnh dị thường.
Dị thường theo nghĩa của Manea, khi ông nói về "an authentic testimony
to true patriotism", "một chứng thực về lòng ái quốc không thể giả mạo".
*
Văn Cao với bản chúc thư liên quan tới trường hợp ra đời của bản quốc
ca.
Phạm Duy, với những đi và về cùng một nghĩa như nhau.
Còn Trịnh Công Sơn?
Có thể ông sẽ văng tục, bởi vì cả đời chưa hề một lần văng tục, khác
hẳn thằng Gấu.
Tao đếch thèm đi đâu cả, nhà của tao ở đây, thành phố của tao ở đây,
quê hương của tao ở đây, cho dù thằng khốn nạn nào làm chủ thì cũng vậy!
*
Gấu thực sự chỉ muốn văng tục như ông, chỉ muốn làm được như ông, nhưng
không thể, và cuối cùng đành phải bỏ chạy quê hương, không chỉ một, mà
tới hai lần!
*
Những sự mất mát trong
đời sống đã mở mắt cho Trịnh Công Sơn thấy được
cái vô thường của đời này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự mất mát, về
tính vô thường của đời sống, luôn luôn là một ám ảnh theo sát Trịnh
Công Sơn từ những ngày anh còn khá trẻ. Có lẽ vì là một người sống ngay
trong một thành phố mà lúc nào bom đạn cũng bủa vây tứ phía, được nhìn
tận mặt chiến tranh, nghe và thấy cái chết một cách quá rõ nét trong
cuộc đời, Trịnh Công Sơn đã có những cảm nhận sâu xa về những cái mất
còn của đời sống. Cuộc chiến đã dựng lên những cận ảnh tang tóc và kinh
hoàng ngay trong những thành phố mà anh đã từng sống với. Cái còn hay
mất của tất cả mọi thứ, kể cả tình yêu, trong chiến tranh, cũng là một
điều mà con người phải kinh nghiệm và chấp nhận. Hạnh Phúc hay Bất
Hạnh. Nỗi Buồn hay Niềm Vui. Khổ Ðau hay Hoan Lạc. Tất cả chỉ là hai
mặt sấp ngửa của Cuộc Ðời. Từ đó, người nhạc sĩ nhận ra rằng:
BVP
Những
câu văn
theo kiểu huề vốn, áp dụng cho bất cứ một ai cũng đặng, vậy mà cũng có
kẻ bắt chước, để bị nghi là đạo văn. Chính những câu văn như vậy, có
thể đã là lý do khiến Ngài Roland Barthes phán, hỡi mấy ông mấy
bà tác giả huề vốn kia ơi, hãy chết hết đi cho
rồi, để cho cái tên độc giả xuất hiện!
Cái nỗi vô
thường làm cho TCS mở mắt ra, là "một" cái chết, của chính ông, nếu
'được' gọi lính.
Ai đã từng sống thời gian đó tại Sài Gòn thì hiểu rất rành điều này.
Gấu nhớ là, khu nhà Gấu, do gần các cơ sở Đài Phát Thanh, Đài Truyền
Hình, Cục Tâm Lý Chiến, thằng Gấu, đêm nào khi đi ngủ cũng nhủ thầm, có
thể đêm
nay là đêm cuối cùng
[sợ lắm em ơi].
Gấu cũng đã tả tâm trạng của, không chỉ riêng một mình TCS, mà tất cả
Sài Gòn, được nỗi vô thường làm cho mở mắt ra:
Đó những ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn khi
ra đường còn nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi nét mừng rỡ vì đêm qua
Việt Cộng tha không pháo kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không còn được
nghe lời ân cần chúc đồng bào ngủ ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc
la-dô để khỏi làm phiền bà con lối xóm. Thay vào đó là một giọng nói đã
được gột bỏ mọi rào đón: Tên những người phải trình diện theo lệnh Tổng
Động Viên, nghe như đã thuộc tài nguyên của một thế giới khác, những
con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn chút ý nghĩa vì chúng cho biết
sắp tới lượt ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...
Cõi
khác
*
Gấu đã từng ngồi với mấy ông quân cảnh, và những ông
này đã thách đố nhau, bằng mọi cách phải tóm cho được cái thằng
trốn lính đó!
Và người cứu TCS là LKC, người chở TCS đi rong chơi, qua
mặt đám QC là Đại Tá [?], ký giả, nhà văn, nhà tâm lý chiến Văn Quang,
hình như ông có viết về cái vụ này?
Chính
cái nỗi sợ chết đó, mà ông không thể nào trốn chạy, dù muốn, hoặc
không, làm cho ông nhận ra cái vô thường, như một nhân vật của Malraux
đã từng được mở mắt ra: Làm đếch gì có cái chết, la mort, mà chỉ có tao
đang chết.
Nếu ông bố không bị tai nạn, mất, thì có thể ông cũng theo cái
đám tinh anh Miền Nam chạy một mạch mất tiêu rồi. Đó là rủi hay may cho
ông,
chưa biết, nhưng rõ ràng là, vì không thể chạy trốn, ông đành ở lại, và
trốn lính, và phát giác ra, âm nhạc, và còn phát giác ra, theo tôi, cái
điều mà nhà thơ Nga phát giác,
khi viết:
Blessed is he who visited this
world
In its fatal
moments
Akhmatova:
Third Elegy [1945]
Hạt
bụi nào
hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc
thê thảm như thế này.
|
|