*
Nhật Ký










*mom
Jen & Mom

Nguyễn Mai và Gấu
*
Note: Cám ơn anh VUG. NQT

*

Album US Gulag

*
Harper's Tháng Chín, 2006

*
*
BookForum
, June/July/August 2006: Thơ Tù Quantanamo Bay
*
Cho dù nỗi đau

Cho dù nỗi đau từ vết thương thêm nhức nhối
Thể nào cũng có thuốc chữa trị.

Cho dù những ngày tù kéo dài cỡ nào
Thể nào cũng có một ngày chúng ta ra khỏi tù.

Album Thơ Tù trong Quần Đảo Ngục Tù của Chú Sam

Trang Thơ
Nguyễn Tất Nhiên
Thơ Nguyễn Tất Nhiên, download từ trên net, còn một số lỗi chính tả, chưa kịp sửa.
Mong lượng thứ.
Trân trọng. NQT

Nòi Tình
Valéry phán, hình thức, thể, dạng...  tốn kém lắm.
Với thơ tự do, là cả cuộc chiến tiếp theo sau nó, mà nó đã ngửi ra được mùi vị của máu.
Cái gọi là tân hình thức, theo tôi, còn tốn kém hơn nhiều.
Tuy nhiên, đối với mấy ông làm thơ tân hình thức, ở hải ngoại, 'tất nhiên', chẳng tốn gì!
*
Theo Barthes, [như đoạn tiếng Anh tiếng U dưới đây cho thấy, khi thông báo sự trở về của tay làm thơ], Cõi Thơ có ba sư phụ.
Và cứ theo như ông thứ ba Jakobson phán, thì, một khi bạn sờ vô bài thơ, mó máy nó, mân mê nó, miệng lẩm bẩm, không biết cái này được làm ra như thế nào, how is this made? , thế là, nó khác đi, và, có một cái gọi là tính thơ, poetic, xuất hiện.
*
Một khi bạn, thay vì nói, tình cảm, thì nói, cảm tình, lập tức thơ xuất hiện, và cùng với nó, là một ý nghĩa khác, về cõi thơ, cõi đời thường. "Tình cảm", nếu phải dịch sang tiếng nước người, có thể dịch bằng chữ "sentiments". Nhưng "cảm tình", nghĩa của nó gần với chữ "êu": Thằng đó có vẻ có cảm tình với mi đấy, câu này có nghĩa, coi bộ thằng chả mết  mày.
Theo như Gấu hiểu.
*

Anh có khỏe không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và Yanni?
Em gửi anh ba bài thơ mới nhất nhé, anh đọc và chia sẻ với em.
Thỉnh thoảng, em vẫn nghĩ tới anh, và nhớ là anh rất hóm và gần gũi
Thơ Trẻ I

Roland Barthes
Món quà tuyệt vời
The Return of the Poetician
When he sits down in front of the literary work, the poetician does not ask himself: What does this mean? Where does this come from? What does it connect to? But, more simply and more arduously: How is this made? This question has already been asked three times in our history: Poetics has three patrons: Aristotle (whose Poetics provides the first structural analysis of the levels and parts of the tragic oeuvre), Valery (who insisted that literature be established as an object of language), Jakobson (who calls poetic any message which emphasizes its own verbal signifier). Poetics is therefore at once very old (linked to the whole rhetorical culture of our civilization) and very new, insofar as it can today benefit from the important renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là một tác phẩm văn học, người làm thơ không tự hỏi: Cái này nghĩa là gì? Cái này đến từ đâu? Nó móc nối tới cái gì? Nhưng, đơn giản hơn, và cũng thật hung hăng con bọ xít hơn: Cái này được làm ra như thế nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra ba lần rồi, trong lịch sử của chúng ta: Cõi Thơ có ba ông Trùm:
Aristotle [tác phẩm Thi Học của ông Trùm này cung cấp bản nghiên cứu thứ nhất,  về cấu trúc một bi kịch, với đủ mọi lớp lang, phần đoạn của nó], Valery, [ông này cứ phán đi phán lại, rằng, văn chương được thành lập như là một đối vật của ngôn ngữ], Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi thơ đấy", bất cứ một thông điệp nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng nó]. Cõi Thơ, như thế, cùng một lúc, thật là xưa, [do mắc mớ tới trọn cả nền văn hóa tu từ của văn minh của chúng ta], và thật là mới, do việc đổi mới quan trọng của những môn khoa học về ngôn ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó đem lại cho Cõi Thơ.

Nhà văn - Thứ lương tâm đồng loại có thể  tin tưởng
- Và bây giờ, cho phép tôi tò mò tí chút: Ông vẫn còn thu gom, những mẩu chuyện khôi hài, tiếu lâm, từ báo chí đương thời, như ông đã từng làm như vậy, và đã được in ở trong Những Năm Học Nghề Của Hề Auguste, như là một cách nhằm minh họa một thời đại đã qua đi? Nếu, như tôi nghi ngờ, ông trả lời, Đúng như thế, thì, xin ông cho độc giả vài mẩu nghe chơi?

Tưởng niệm Trịnh Công Sơn
Ba nhạc sĩ của một thời, thời của chúng ta, mỗi ông là một số mệnh dị thường.
Dị thường theo nghĩa của Manea, khi ông nói về "an authentic testimony to true patriotism", "một chứng thực về lòng ái quốc không thể giả mạo".
*
Văn Cao với bản chúc thư liên quan tới trường hợp ra đời của bản quốc ca.
Phạm Duy, với những đi và về cùng một nghĩa như nhau.
Còn Trịnh Công Sơn?
Có thể ông sẽ văng tục, bởi vì cả đời chưa hề một lần văng tục, khác hẳn thằng Gấu.
Tao đếch thèm đi đâu cả, nhà của tao ở đây, thành phố của tao ở đây, quê hương của tao ở đây, cho dù thằng khốn nạn nào làm chủ thì cũng vậy!
*
Gấu thực sự chỉ muốn văng tục như ông, chỉ muốn làm được như ông, nhưng không thể, và cuối cùng đành phải bỏ chạy quê hương, không chỉ một, mà tới hai lần!
*

Những sự mất mát trong đời sống đã mở mắt cho Trịnh Công Sơn thấy được cái vô thường của đời này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự mất mát, về tính vô thường của đời sống, luôn luôn là một ám ảnh theo sát Trịnh Công Sơn từ những ngày anh còn khá trẻ. Có lẽ vì là một người sống ngay trong một thành phố mà lúc nào bom đạn cũng bủa vây tứ phía, được nhìn tận mặt chiến tranh, nghe và thấy cái chết một cách quá rõ nét trong cuộc đời, Trịnh Công Sơn đã có những cảm nhận sâu xa về những cái mất còn của đời sống. Cuộc chiến đã dựng lên những cận ảnh tang tóc và kinh hoàng ngay trong những thành phố mà anh đã từng sống với. Cái còn hay mất của tất cả mọi thứ, kể cả tình yêu, trong chiến tranh, cũng là một điều mà con người phải kinh nghiệm và chấp nhận. Hạnh Phúc hay Bất Hạnh. Nỗi Buồn hay Niềm Vui. Khổ Ðau hay Hoan Lạc. Tất cả chỉ là hai mặt sấp ngửa của Cuộc Ðời. Từ đó, người nhạc sĩ nhận ra rằng:

BVP

Những câu văn theo kiểu huề vốn, áp dụng cho bất cứ một ai cũng đặng, vậy mà cũng có kẻ bắt chước, để bị nghi là đạo văn. Chính những câu văn như vậy, có thể đã là lý do khiến Ngài Roland Barthes phán, hỡi mấy ông mấy bà tác giả huề vốn kia ơi, hãy chết hết đi cho rồi, để cho cái tên độc giả xuất hiện!

Cái nỗi vô thường làm cho TCS mở mắt ra, là "một" cái chết, của chính ông, nếu 'được' gọi lính. Ai đã từng sống thời gian đó tại Sài Gòn thì hiểu rất rành điều này. Gấu nhớ là, khu nhà Gấu, do gần các cơ sở Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình, Cục Tâm Lý Chiến, thằng Gấu, đêm nào khi đi ngủ cũng nhủ thầm, có thể đêm nay là đêm cuối cùng [sợ lắm em ơi].

Gấu cũng đã tả tâm trạng của, không chỉ riêng một mình TCS, mà tất cả Sài Gòn, được nỗi vô thường làm cho mở mắt ra:

Đó những ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn khi ra đường còn nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi nét mừng rỡ vì đêm qua Việt Cộng tha không pháo kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không còn được nghe lời ân cần chúc đồng bào ngủ ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc la-dô để khỏi làm phiền bà con lối xóm. Thay vào đó là một giọng nói đã được gột bỏ mọi rào đón: Tên những người phải trình diện theo lệnh Tổng Động Viên, nghe như đã thuộc tài nguyên của một thế giới khác, những con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn chút ý nghĩa vì chúng cho biết sắp tới lượt ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...

Cõi khác
*
Gấu đã từng ngồi với mấy ông quân cảnh, và những ông này đã thách đố nhau, bằng mọi cách phải tóm cho được cái thằng trốn lính đó!
Và người cứu TCS là LKC, người chở TCS đi rong chơi, qua mặt đám QC là Đại Tá [?], ký giả, nhà văn, nhà tâm lý chiến Văn Quang, hình như ông có viết về cái vụ này?
Chính cái nỗi sợ chết đó, mà ông không thể nào trốn chạy, dù muốn, hoặc không, làm cho ông nhận ra cái vô thường, như một nhân vật của Malraux đã từng được mở mắt ra: Làm đếch gì có cái chết, la mort, mà chỉ có tao đang chết.
Nếu ông bố không bị tai nạn, mất, thì có thể ông cũng theo cái đám tinh anh Miền Nam chạy một mạch mất tiêu rồi. Đó là rủi hay may cho ông, chưa biết, nhưng rõ ràng là, vì không thể chạy trốn, ông đành ở lại, và trốn lính, và phát giác ra, âm nhạc, và còn phát giác ra, theo tôi, cái điều mà nhà thơ Nga phát giác, khi viết:

Blessed is he who visited this world
In its fatal moments
Akhmatova: Third Elegy [1945]
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc thê thảm như thế này.