|
@ Chuck_E_cheese's
Thư Thầy Cũ
Thầy Phú là thầy dậy toán
của Gấu, năm học Đệ Nhất B.8 Chu Văn An, khi nhà trường còn ăn nhờ ở
đậu trường Pétrus Ký, nơi miếng đất kế bên, sau nơi này trở thành Trung
Tâm Học Liệu.
Bây giờ, về già, Thầy lại ban cho thêm một bài học nữa.
Năm học Đệ Nhất đó, thật là tuyệt vời.
Nhờ nó, Hai Lúa quen bạn Chất. Anh dẫn về nhà, lâu lâu cho Gấu tá túc,
mãi cho
đến khi tốt nghiệp, đi làm, có đồng tiền, khi đó mới đón bà cụ, đang
làm chân giữ em, làm bếp cho một gia đình quen, và luôn cả thằng em
trai cũng ở chung với bà cụ, về, mướn căn nhà, ba mẹ con đùm bọc.
Gấu có một kỷ niệm cũng thật là tuyệt vời về thầy Phú.
Thầy dậy môn hình học. Đệ Nhất B, năm cuối cùng của hình học phẳng, học
toàn những thứ "tuyệt tuyệt": cônic, nghịch đảo, hàng điểm điều hòa,
vòng tròn trực giao, vòng tròn 9 điểm [còn gọi là vòng tròn Euler],
chùm vòng tròn....
Gấu do mê toán, thường là thầy giảng tới đâu, biết tới đó, nhập tâm
luôn. Có khi còn biết trước... thầy!
Lần đó, thầy Phú dậy một bài học đã từng dậy nhiều lần, do phụ trách
nhiều lớp. Do quá ỷ y chắc vậy, thầy không coi lại, và bất ngờ, thầy...
bí. Gấu bèn nhắc thầy.
Bữa đó, cả lớp trố mắt nhìn Gấu. Còn thầy, gật gù, ra ý, thằng này khá!
Gấu còn nhớ, năm đó, rất nhiều cu cậu thi rớt Tú Tài 2, vì câu hỏi định
nghĩa hai vòng tròn trực giao.
Câu này có một cái bẫy. Hai vòng tròn trực giao là hai vòng tròn nằm
trong cùng một mặt phẳng, tiếp tuyến ở tiếp điểm thẳng góc với nhau.
Đa số rớt vì quên cái mẩu "cùng nằm trong một mặt phẳng"!
Thư gửi bạn
ta
5
Nói trắng ra là bộ môn phê
bình ở miền Nam trước kia và hải ngoại bây
giờ rất yếu. Có thể đếm trên đầu ngón tay những người phê bình có uy
tín. Bây giờ điểm lại người có uy tín nhất hiện nay là Nguyễn Hưng
Quốc, tiếp theo là Đặng Tiến, Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê, Trần Hữu Thục,
Nguyễn Vy Khanh... và một vài người khác nữa. Còn chuyện khen chê nhiều
khi là chủ quan nhiều hơn. Rồi có những cuộc tranh luận, không xoay vào
tác phẩm, không xoay vào đề tài mà cãi qua vài ba trận là bắt đầu nói
xấu về đời tư của nhau. Đó là cái rất yếu của người phê bình. Miền Nam
trước kia cũng vậy, không khác gì. Đó chỉ là văn chương thôi, còn chính
trị nữa thì không thể nói.
NSV: Không ai dám lên tiếng hay sao?
NMG: Chẳng hạn hồi trước khi về hưu, trong một lúc
cao hứng,
tôi tuyên bố là khi tôi về hưu sẽ viết một bộ văn học sử về văn chương
hải ngoại. Hồi đó là dại dột, cho nên nói vậy, chứ bây giờ mà bắt tay
vào là sinh chuyện. Khi kê khai mà thiếu bất kỳ ai thì chết với họ. Có
khi kể họ sau người khác cũng không được. Mà chẳng lẽ kê khai đồng hạng
cả thì cũng không được.
NMG
Những nhận định về phê bình như trên, đã trở thành "bản kẽm", và sự
thực mà nói, hơi bị cường điệu, và đều mang "hơi hớm" của lời phán của
Võ Phiến, và nhờ vậy, hải ngoại mang ơn ông có được bộ văn học sử đầu
tiên và độc nhất là bộ Văn Học Miền Nam của ông. (1)
Những nói xấu về đời tư, nếu
có, cũng là từ... VP, qua những lời bóng gió về một NTH, thí dụ
vậy.
Phê bình miền nam trước 1975, với Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Nguyễn
Nhật Duật, Huỳnh Phan Anh, Uyên Thao... nào có bất cứ một ai trong số
đó, lôi đời tư của những tác giả mà họ đề cập tới?
Về cơn cao hứng của NMG theo tôi, đúng là... cao hứng. Nếu ông thực
tình muốn viết một bộ văn học sử về văn chương hải ngoại, thì sá gì cái
chuyện "kê khai mà thiếu bất kỳ ai". Có thiếu, cũng chưa chắc đã sinh
chuyện. Không được ông kê khai có khi còn là một hạnh phúc, như...
Flaubert chẳng hạn! Ông này rất ghét mấy ông phê bình lôi tên tuổi hình
ảnh của ông ra để mà dây máu ăn phần. Faulkner còn ghê hơn, chỉ muốn sổ
đoạn trường gạch tên ông ra. Đâu có phải ai cũng muốn được kê khai đâu?
Vả chăng, phe nhà thì mình nêu tên, còn thằng nào không ưa thì nhét nó
vào một rọ "còn vài thằng khốn nạn khác nữa, không tiện nêu tên", đâu
có "chết với ai?"
Chưa viết mà đã thế, thì còn mong gì nữa!
(1) Trong lời mở đầu bộ văn học sử, Võ Phiến cho biết, "... trước hết
mình không phải là nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông
ra... Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ
viết..."
NSV: Tình hình hiện tại không cho phép độc giả
trong nước đọc văn chương hải ngoại. Chỉ qua đường internet, độc giả
trong nước mới có thể thưởng thức được những tác phẩm giá trị bên ngoài.
NMG: Điều đó tốt, rất tốt. Ví dụ ở San Jose có website
của Thời Văn, mỗi tuần đăng rất nhiều bài, ở trong nước muốn xem
rất dễ dàng. Cái chính là ở chỗ họ xem nhưng họ lại không thông cảm
được. Và chẳng hạn như nhà văn rất ăn khách trong nước bây giờ là
Nguyễn Nhật Ánh, khi đọc tôi không thấy hay.
NMG
Câu trả lời của NMG theo tôi có thể đưa vô talaCu được.
Thời Văn cũng là một trang của phe nhà.
Thời Văn thua xa... Gió O, thí dụ vậy. Chắc là NMG không ưa...
Gió O của LTH. Gió O xếp hạng top 100 ngàn, tức một trong những trang
được đọc nhiều nhất, còn Thời Văn, 600 ngàn, theo Alexa. Gió O có rất
nhiều bài mỗi tuần của cả trong lẫn ngoài nước.
Cái chính là chỗ họ xem nhưng họ lại không thông cảm được. Câu này của
NMG quả là liều một cục. Cuốn của ông, được độc giả trong nước nâng niu
như thế mà sao ông nỡ nói họ không thông cảm đuợc?
Còn nhận định về Nguyễn Nhật Ánh, thì lạc đề, vì câu hỏi là về độc giả
ở trong nước đối với văn chương hải ngoại.
Nên để dịp khác dậy cho trong nước biết thế nào là một tác phẩm "khi
đọc tôi thấy hay"!
Ôi chao, chán quá, chán quá!
Dọn hoài còn hoài.
Hết muốn dọn rồi!
Bếp Lửa
Tết đã qua. Mùa xuân kéo dài với những
trận mưa phùn làm bẩn
hè phố. Tôi không đặt chân về nhà nữa. Ngọc và tôi ăn tết cùng gia đình
Bảo.
Chiều mùng một, tôi lên đón hai chị em
Thanh đi chơi. Thanh
bầy bàn thờ trên cái xích đông làm giá sách trước bàn học của Minh.
Thanh bảo
tôi lễ tổ tiên. Tôi chắp hai tay và lòng bâng khuâng. Mùng ba Ngọc trở
xuống
Hải Phòng. Chúng tôi uống rượu trước khi chia tay. Vợ Bảo đặt cái bánh
chưng
lên bàn và bảo với Ngọc:
“Anh ăn bánh chưng đi, biết đâu chẳng
là miếng cuối cùng
trước khi đi.”
“Vâng, biết trước thế nào được.”
Ngoài phố những đứa bé nghèo nàn đang
đánh đáo. Chúng tôi
không đưa tiễn nhau. Mùng chín tôi trở sang Bắc Ninh. Cái tết đi qua có
lẽ quá
vui khiến để lại cho thị trấn này vẻ trơ trẽn. Mưa bay ngoài cửa sổ và
sự
chuyển vận của chiến tranh mỗi lúc một thêm hấp tấp.
Đại vẫn chưa bỏ ra hậu phương. Trước
khi về trường tôi có
ghé nhà thăm và chúc tết ông Chính. Tình cờ tôi được biết Đại dan díu
với
Thịnh. Trong suốt mấy tháng tôi không được một dòng chữ nào của bạn bè.
Tôi
cùng về Hà Nội với Hạnh vài lần. Những ngày ấy tôi dành riêng cho Hạnh.
Gần
nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe dọa của chiến
tranh, tổng
quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt
tình
trong yêu đương.
Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình
thường, Hạnh ngượng
ngùng. Một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng và hỏi:
“Anh có khinh em không?”
Lúc ấy tôi đau đớn tất cả thân thể.
|
|