Bông
hồng là bông hồng là bông hồng (2)
Bài
này, tiếp theo bài trước, đúng ra phải xuất hiện lâu lắm
rồi, ngay sau loạt bài của Nguyên Sa và sau đó, của Duyên Anh. Tức là
trước một
cuộc chiến, và sau đó, một cuộc bỏ chạy tán loạn. Nó phải xuất hiện khi
những
người có liên can còn sống. Và khi họ đã mất, lại càng không nên viết,
nếu là
một bài nhằm tranh hơn thua. Như tôi được biết, tuy chưa được đọc,
trong hồi
ký, Nguyên Sa hình như có cho rằng, ông hơi quá tay, trong vụ "đụng
độ" giữa ông và Nguyễn Quốc Trụ.
Trong
dịp ghé Tiểu Sài Gòn dịp Tết vừa rồi, tôi có ngồi uống
la de với một họa sĩ, và một nhà phê bình hội họa. Nhân vui men rượu,
men Tết,
men nhớ Sài Gòn, ông phê bình hội họa có nhắc tới vụ đụng độ trên, mà
theo ông,
cho tới bây giờ, sau bao nhiêu năm, ông vẫn còn nhớ, một từ-chìa khóa,
mà NQT
đã sử dụng: Nhà văn là một thứ dê tế thần. Nhưng từ này, không phải của
NQT mà là
của Kafka. Ông nói thêm, vụ đụng độ đó, bởi vì NS lúc đó đã là một nhân
vật có
địa vị trong giới văn học, còn NQT mới nhi nhô viết, mà lại viết phê
bình, lại
nhè một vị có danh tiếng, để mà đập, thành thử có vẻ như muốn nổi tiếng
tắt,
theo kiểu đốt đền thờ, hoặc theo kiểu anh anh tôi tôi với những bậc đàn
anh.
Nhưng thời gian cho thấy, là NQT có lý, khi "chê" tập truyện Mây Bay
Đi, bởi vì cho đến bây giờ, chẳng ai còn nhớ tới nó, và Nguyên Sa thì
vẫn luôn
luôn nổi tiếng, như là nhà thơ, chứ không phải người viết truyện ngắn.
Bông
hồng sở dĩ bây giờ mới nở tiếp, là do người viết không
muốn lạm dụng diễn đàn VHNT mà trang Tin Văn nhờ đó mà có, trong mấy
năm nay.
Chủ trương của VHNT do Phạm Chi Lan chủ biên là "văn học và chỉ văn học
mà
thôi", mà loạt bài này thật dễ đi ra ngoài chủ trương đó. Ngay một diễn
đàn cởi mở như Talawas, cuối cùng ban biên tập cũng phải yêu cầu chấm
dứt những
bài viết vượt ra khỏi một số qui định thường thấy. Vì những lý do đó,
người
viết thấy cần phải có một diễn đàn của riêng mình, lúc đó tha hồ mà
nói, và chỉ
chịu trách nhiệm trước lương tâm mình, và cũng không sợ bị khóa miệng...
Bông
hồng, như bài trước đã viết, một cách nào, là để tưởng
niệm Nguyên Sa, và còn để nhắc nhở chính mình khi viết: Đừng làm bông
hồng
không là bông hồng không là bông hồng..
Không
có [loạt bài một bông] hồng [cho văn chương] chắc gì
bài viết này có giọng điệu như vầy...
Bài
này thực sự không phải là một bài trả lời những tác giả
như Hoặc Ngữ, Nguyễn Hưng Quốc, chẳng hạn. Như trên đã nói, là một
người viết
từ trước 1975, tại miền nam, khoảng cách giữa tôi và họ, là một cuộc
chiến, và
một cuộc bỏ chạy tán loạn. Lê Đạt, hình như vậy, khi trả lời Hoàng Ngọc
Tuấn
trong vụ "tài liệu giả", "dịch sai", "dốt tiếng
Tây"..., để giải thích cho sự kém cỏi ông, là do vướng vào cuộc chiến
chống Pháp. Đây là một sự nhún nhường, theo như tôi biết, bởi vì những
người
như ông thuộc thế hệ rành rẽ tiếng Tây từ trước khi cuộc chiến bùng nổ.
Tôi xin
mượn câu trả lời của ông, để biện minh cho cái dốt tiếng Anh của mình:
Trong
khi Hoặc Ngữ học đại học tại hải ngoại, tôi còn ở Việt Nam, và còn khốn
khổ vì
kiếm miếng ăn cho mình, và gia đình, và chẳng hề bao giờ có ý nghĩ bỏ
nước ra
đi, cuối cùng đành chấp nhận số phận trâu chậm uống nước đục. Khi còn ở
trại tị
nạn, cố liên lạc với một số bạn văn nhờ trợ giúp tiền bạc, và nhất là
nhờ
"can thiệp" sao cho được công nhận là một tị nạn chính trị, để khỏi
bị trả về Việt Nam, một trong số bạn đáp lời, là Trùng Dương; bà đã
than giùm,
anh đi vào cuối mùa tị nạn, còn gì nữa đâu mà... Cuối cùng đành chịu
dốt, nhưng
cố ngoi lên, và bởi vì mê Borges nên cố dịch. Vào thời điểm đó, hình
như chưa
có ai mất thì giờ dịch những tác giả, thí dụ Borges, Steiner... Ông
Hoặc Ngữ
viết:... Borges là người tôi say mê.. giá mà ông bớt chút thì giờ dịch
Borges,
tôi đã chẳng phải thò cái dốt của mình ra. Ấy là nói vậy, chứ cái việc
dịch nó
rắc rối hơn nhiều, không chỉ giỏi ngoại ngữ là dịch giỏi, dịch đúng,
dịch hay.
Do
những bài viết của họ, tôi chợt nghĩ, nên viết loạt bài
này, như một cách nhìn lại cái gọi là dịch thuật, phê bình, điểm sách ở
miền
nam, và sau này, ở hải ngoại.
Như
trên đã viết, bài này sẽ viết theo kiểu tản mạn...
Tản
mạn ở đây, chữ mượn của Nguyễn Tuân [Tản mạn xung quanh
một áng Kiều], ý, lấy ở từ "excursion" của Roland Barthes, một từ
theo ông mơ hồ một cách thật là kiểu cách (précieusement ambigu). Trong
bài đọc
[Lecon] mở ra khóa giảng môn học
"Sémiologie littéraire" [Ký hiệu học văn học], tại Collège de France,
ngày 7 tháng Giêng 1977, sau được in lại trong tủ sách Points, bộ môn
Nhân Văn,
nhà xb Seuil, ông cho rằng, cái phương pháp dậy và học bấy giờ nó không
như
trước nữa. Trích dẫn câu của Mallarmé, "Mọi phương pháp là một giả
tưởng" (Toute méthode est une fiction), ông coi phương pháp viết và
giảng
của ông không nhắm phát hiện, không nhằm tháo gỡ, không mong đạt kết
quả, mà
chỉ là một giả tưởng, qua đó:
Khi
viết có tính tản mạn (fragmentation),
Khi
trình bầy, lan man lạc đề (digression);
Hay
là dùng một từ mơ hồ một cách thật là kiểu cách,
excursion (đi ra ngoài, dạo chơi, thăm thú...). Ông viết:
Tôi
mong rằng lời nói và lắng nghe ở đây, chúng đan vào
nhau, giống như những lối chạy đi chạy về của một đứa trẻ, quanh bà mẹ
[quanh
một áng Kiều, như Nguyễn Tuân nói], và
mỗi lần chạy về như thế lại mang cho bà một viên sỏi, một sợi len, đứa
bé vẽ
quanh bà mẹ một vườn chơi, ở trong vườn, viên sỏi, sợi len mang về
không quí
bằng niềm háo hức của đứa bé.
Trong
một bài viết mang tính tranh luận, làm sao mà gửi tới
người đọc, một món quà, là niềm háo hức, mong ước (le désir), mà đứa bé
trải
lên những lối đi về, quanh bà mẹ?
[Tản
mạn mà được như thế thì thích, nhỉ?]
Khi
bị chê là viết tản mạn, George Steiner trả lời: Người
nào nói như vậy, là phỉnh nịnh tôi đấy.
Bởi
vì suốt đời, ông chỉ đau nỗi đau Lò Thiêu, mà ông đã
thoát được, trong khi bao nhiêu người khác, trong có bạn bè, bà con của
ông, đã
bị tiêu hủy ở đó. Từ câu hỏi nhức nhối "Tại sao Lò Thiêu", là nỗi băn
khoăn về một ông Trời...
[Tôi
là một người của hồi nhớ. Ở trung tâm tác phẩm của tôi,
là toan tính: tới sau Lò Thiêu...
Những
người buộc tội tôi "tản mạn" (scattering),
là họ phỉnh nịnh tôi đấy. Thị kiến của riêng tôi, hầu như chỉ xoáy về
một điểm.
Khi còn là một gã quá trẻ, tôi cho xuất bản cuốn Tolstoy hay là
Dostoevsky,
trong đó, tôi nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân biệt hai nhà văn này
với một
Flaubert hay một Balzac, đó cũng là điều làm họ giống Melville, và đó
là chiều
thần học (theological dimension), tức là câu hỏi về sự hiện hữu của
Thượng Đế.
Cuốn sách nói về điều mà Những Hiện Diện Thực mở rộng ba mươi lăm năm
sau đó.
Tôi tin tưởng rằng có một số chiều nào đó, trong văn chương, nghệ
thuật, âm
nhạc, và cả trong triết học: chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu
hỏi, có
hay không một đấng Thượng Đế, bị coi là vô nghĩa. Phỏng vấn Steiner
Từ Potin của mục này (folder), là cũng mượn của Barthes,
trong tác phẩm, "Tản mạn về một bài yêu dành cho người thương" (Tạm
dịch cái tít "Fragments d'un discours amoureux", bản tiếng Anh, A
Lover's Discourse, Fragments, Vintage, 2002):
Potin/Gossip
Nỗi
đau của một người đang yêu, khi phát hiện ra rằng, người
mà mình yêu thương đang là đề tài của gossip...
Trên
đường từ Phalerum, một lữ hành buồn bực (bored) nhìn
thấy có bóng người ở phía trước. Vội rảo bước, bắt kịp, và hỏi người đó
về bữa
tiệc có diễn văn (banquet) của Agathon. Lý thuyết về tình yêu đã được
hình
thành như thế đó:Tình cờ [Hai người yêu nhau rất tình cờ, Thơ Thanh Tâm
Tuyền],
buồn bực, mong được nói chuyện, hay là, nếu bạn muốn, một chuyện tầm
phào, ngồi
lê đôi mách kéo dài chừng một dặm đường.... Từ "symposium" [hội nghị
chuyên đề] như vậy không chỉ có nghĩa một cuộc nói chuyện
[conversation] (Chúng
ta đang bàn về một vấn đề), mà còn có nghĩa "gossip" (Chúng ta đang
nói chuyện với nhau về những người khác).
NQT