Sai Sót, Ấu Trĩ, Non Nớt
Bông
Hồng 4
Difficulty
is ontological before it is philosophical (M. Blanchot).
Error
is the risk which awaits the poet... Error means
wandwering, the inability to abibe and stay. For where the wanderer is,
the
conditions of a definitive here and now are lacking.... The wanderer's
country
is not truth, but exile; he lives outside, on the other side which is
by no
means a beyond, rather the contrary. He remains separated, where the
deep of
dissimulation, that elemental obscurity through which no way can be
made and
which because of that makes its awful way through him (Blanchot).
When
Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot
says, "he named the poetic condition as well... The poem is exile and
the
poet who belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is
always
lost to himself, outside, far from home; he belongs to the foreign, the
outside
which knows no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin
names
when in his madness he sees rythm's infinite space.
Khó
nhá mang tính bản thể trước, rồi mới triết học.
Sai
Sót là một rủi ro đợi nhà thơ.... Sai Sót có nghĩa là
lang thang, tản mạn, là sợ ngồi một chỗ nóng đít, phải bỏ đi. Bỡi vì
cái chốn
tạm đó, nơi anh chàng lỡ độ đư\ờng được người ta thương tình, cho nương
náu qua
đêm là may rồi, sức mấy mà còn đòi hỏi, rằng chỗ
này phải có thịt chó, bữa nay phải có quốc
lủi.... Cái xứ sở của một
kẻ lang thang không phải là chân lý, mà là đầu đường xó chợ, là lưu
vong biệt
xứ....
Khi
Saint-John Perse đặt tên cho một bài thơ của mình là Lưu
Vong, Blanchot nói, "ông ta gọi tên cái gọi là điều kiện của thơ...."
"Thông
thường, trong các cuộc đàm luận về dịch thuật,
người ta thường bảo nhau rằng để bản dịch bớt sai sót, người dịch phải
có hiểu
biết về văn hoá của quốc gia làm chủ thứ tiếng của văn bản gốc. Chẳng
hạn, để
dịch nhóm chữ "Extraordinary Fellow", người dịch phải biết rõ các
chức năng và trách vụ trong sinh hoạt hàn lâm của các học viện ở Anh
quốc, chứ
không thể tỉnh khô quăng ra nhóm chữ kỳ quặc "Người Bạn Khác Thường",
như Nguyễn Quốc Trụ đã "dịch" ra Việt ngữ chức vụ của George Steiner
tại Học Viện Churchill thuộc đại học Cambridge. (Xem bản dịch của
Nguyễn Quốc
Trụ ở http://www.tanvien.net; mục chuyển
ngữ, chắc chắn độc giả Việt Nam
trong nước sẽ chẳng đoán nổi ông Steiner làm gì ở Học Viện Churchill.
Tôi trộm
nghĩ có lẽ nên dịch nhóm chữ "Extraordinary Fellow" thành ra
"Viện Sĩ Kiệt Xuất", hay "Viện Sĩ Ưu Việt", chẳng hạn, thì
dễ hiểu hơn và chính xác hơn chăng?
Hoặc
Ngữ
Khi
Hoặc Ngữ dịch Extraordinary Fellow là Viện sĩ Kiệt xuất,
Ưu việt ... , ông vẫn chưa làm sao giải thích - ít ra là cho tôi - tại
làm sao
Khác Thường được dịch ra tiếng Việt là Kiệt Xuất, Ưu Việt.
Ông
dịch từ này, như trên cho thấy, qua chức vụ của Steiner,
tại học viện Churchill thuộc đại học Cambridge, nhưng ông không cho
biết tại
sao lại có cái từ "extraordinary" đó, gốc nó ở đâu mà ra. Bởi vì nếu
chúng ta dịch những từ như Viện sĩ Ưu tú, Kiệt xuất qua tiếng Anh trở
lại, lập
tức từ Extraordinary biến mất.
Để
"minh họa" trường hợp trên đây, cho phép tôi
mượn hình ảnh "mắt xanh" của Trung Hoa.
Bởi
vì ông G. Steiner đã gắn bó với đại học Cambridge, nên
đại học này đã lấy cặp mắt xanh đáp lại, và gọi ông là Extraordinary
Fellow, để
tôn vinh ông, như là một viện sĩ ưu tú, kiệt xuất.
Nhưng
để hiểu được tại sao, ở đâu ra cái từ "Khác
Thường", cái từ "Mắt Xanh".... là phải lần
tới gốc của nó.
Với
Mắt Xanh, là giai thoại về một ông Trung Hoa gặp tri âm
thì lấy mắt xanh ra đãi, gặp phường tục tử, thì giương cặp mắt trắng rã
ra...
Tôi
tin rằng một sinh viên của đại học trên, sẽ cho chúng ta
biết cái gốc của từ Khác Thường....
Ở
đây, chỉ là đoán mò...
.....người
ta thường bảo nhau rằng để bản dịch bớt sai sót,
người dịch phải có hiểu biết về văn hoá của quốc gia làm chủ thứ tiếng
của văn
bản gốc....
Hoặc
Ngữ
Coetzee,
trong bài viết về dịch giả Gass, khi dịch Rilke
[William Gass's Rilke, trong Stranger Shores, nhà xb Viking, 2001], đã
nhắc lại
quan niệm của Gass,
về
Rilke:
Rilke
chiến đấu cả đời để là một nhà thơ - không phải nhà
thơ thuần túy, nhưng thuần túy nhà thơ [not a pure poet, but purely a
poet],
bởi vì ông cảm thấy.... thơ chỉ có thể viết bởi một người nào đã là nhà
thơ
[because he felt... that poetry could only be written by someone who
was
already a poet]
[Tôi
nhớ Borges hình như cũng nói tương tự: Thơ ca là để
trao cho thi sĩ...]
Và
về dịch:
Để
có thể dịch một bài văn (a literary text), hiểu ngôn ngữ
nguồn chưa đủ. Cũng chưa đủ, cái việc chuyển câu theo câu, chữ theo
chữ. Bạn
phải hiểu nó: bài văn. "Nhiều dịch giả chẳng thèm mất công hiểu bài
văn...
[bởi vì họ nghĩ rằng cái việc hiểu như thế] sẽ ảnh hưởng tới tính sáng
tạo của
riêng họ, và ảnh hưởng tới quan điểm của họ, về những gì nhà thơ nói.."
Theo
Coetzee, một quan điểm dịch thuật như vậy, thật dễ gây
tranh luận. Ông lấy thí dụ, câu mở đầu Elegy 1 của Rilke:
Ein
jeder Engel ist schrecklich: Every angel is terrible:
Mọi thiên thần thì khủng khiếp.
Coetzee
viết, tôi có thể thất bại, như là một dịch giả, mặc
dù đã đổ mồ hôi cái mồ hôi con, hì hục đọc đi đọc lại Elegies, đọc lên
đọc
xuống những giải thích về thi sĩ, những lời phê bình hay ho, quí báu về
Rilke:
"Vưỡn" thua!
Nghĩa
là tôi vẫn không chắc chắn "thiên thần" -
một trong những thiên thần của Rilke- trông nó như thế nào [I am still
not sure
what an angel - one of Rilke's angels -
looks like?].
Liệu
đã đủ, cái việc dịch giả giản dị gọi ein Engel là một
thiên thần, thế là xong với nó?
Đúng
và Không (Yes and No), Coetzee trả lời.
Bông
hồng là bông hồng là bông hồng: Ein Engel là một thiên
thần là ein Engel, nhưng khi chưa biết loại thiên thần mà Rilke có ở
trong đầu,
là loại nào, cho tới khi đó, tôi [Coetzee] vẫn chưa hiểu được
"schrecklich" nghĩa là gì:
Khủng
khiếp, Terrible (theo dịch giả Leishman).
Đáng
khiếp sợ, Terrifying (Poulin, Mitchell).
Kính
sợ, Awesome (Gass).
và
Coetzee cho rằng:
Dịch
giả không cần hiểu bài văn trước khi dịch nó.
Nói
đúng ra là thế này: việc dịch một bản văn trở thành một
phần của cái tiến trình khám phá - và làm nên, cái nghĩa của bản văn.
Từ
đó, ông suy ra một hệ luận, là:
Việc
dịch thuật hóa ra là làm sao có được cái hình thức gay
cấn hơn nhiều, và đòi hỏi hơn nhiều: cái mà chúng ta làm [nên], bất cứ
khi nào
chúng ta đọc.
Và
ông tự hỏi:
Dịch
giả phải biết thế nào cho đủ, cho tốt, ngôn ngữ gốc?
Thật
là không đủ, cái việc dịch giả "tỉnh khô" gọi
ein Engel là một thiên thần...
"Nhưng
dịch mà không rành văn hoá nước mình là điều
thật khó "thông qua". Thật ra, trong các cuộc đàm luận về dịch thuật
của chúng ta, tôi cũng chưa nghe ai nhắc đến điều kỳ cục này. Có lẽ vì
đó là
điều khó có thể xảy ra.
Tôi
ngờ rằng Nguyễn Quốc Trụ không biết "The Book of
Changes", hay "I Ching", tức là Kinh Dịch, và có lẽ ông cũng
chưa hề đọc Kinh Dịch hay bất cứ sách nào về Kinh Dịch, nên ông mới bạo
gan
sáng tác một nhóm chữ vô nghĩa là "hình sáu điểm sáu mươi-bốn" để
dịch nhóm chữ "the sixty-four hexagrams".
Thật
ra, có lẽ đa số người Việt có hiểu biết căn bản về văn
hóa Ðông Á đều hiểu ngay "the sixty-four hexagrams" là "lục thập
tứ quái", hay dễ hiểu hơn, là "sáu mươi tư quẻ sáu vạch".
Hoặc
Ngữ
Tôi,
Nguyễn Quốc Trụ, xin thưa là, cái gọi là văn hóa nước
mình, tức cuốn Kinh Dịch đó, thực sự không phải là văn hóa nước mình.
Cái
việc không rành một cuốn như Kinh Dịch cũng không phải
là một điều khó hiểu. Tôi có biết cuốn Kinh Dịch, và ở trong nhà có mấy
cuốn
Kinh Dịch, nhưng vẫn không hiểu Kinh Dịch là gì.
Tôi
tin rằng, tuy HN viết, "Tôi ngờ rằng NQT không biết
The Book of Changes".... tức Kinh Dịch", nhưng tôi cũng thực sự tin
rằng, HN biết, đây là một cuốn sách khó nhai, và ông cũng thực sự không
đòi
hỏi, tôi, người dịch phải biết Kinh Dịch, khi chỉ cần biết nội cái tên
của cuốn
sách đó.
Bởi
vì ngay câu sau, ông giải thích:
Thật
ra, có lẽ đa số người Việt có hiểu biết căn bản....
Bây
giờ, vấn đề đặt ra ở đây là:
Tại
sao HN không cho NQT được "hân hạnh" là một,
trong cái "đa số người Việt có chút căn bản về văn hóa Á Đông" đó?
Riết
róng hơn: Tại sao NQT lại tỉnh khô quăng ra một nhóm
chữ kỳ quặc như... "sấm" đó?
(Còn
tiếp)
NQT