Ghi
Dọn I
II
1 2 3 4 5 6 7
8
|
Linda
Lê đọc
Nhật ký của Kafka: Dịch từ câm lặng
Traduit du silence
Journal
intime
FRANZ KAFKA
Traduit
(de l'allemand) et
préfacé par Pierre Klossowski
Éd.
Rivages poche, 256 p., 9
€, à paraître le 9 avril.
En
1936, Pierre Klossowski
publia la version française d'un texte prophétique de Walter Benjamin,
qu'il
intitula : L'Œuvre d'art à l'époque
de sa reproduction mécanisée. À Adrienne
Monnier, impressionnée par son travail, il ne cacha pas ses réserves
sur cette
traduction, trop libre au goût du « visionnaire », rencontré à l'époque
où il
participait aux « agglutinations Breton- Bataille ».
L'écrivain
berlinois venait
de saluer en Kafka, mort douze ans auparavant, un habitant du pays de
l'oubli,
« réservoir d'où surgit la lumière ». Klossowski se souvenait sans
doute de ces
lignes quand, en 1945, avant l'édition presque définitive que devait
parachever
Marthe Robert, il proposa une traduction du Journal de Kafka, et dit, au sujet
de ces cahiers, en partie détruits par leur auteur et certainement
jamais lus
par aucun de ses proches, hormis Milena Jesenska: C'est le journal d'un
malade
qui désire la guérison, qui croit à la santé.
Georges
Bataille s'empara de
ces pages et les commenta en 1950, tout au long d'une étude, incluse
par la
suite dans La Littérature et le Mal,
où Kafka plaide coupable, ayant commis,
enfant, le « crime de lire », puis, une fois parvenu à l'âge d'homme,
le «
crime d'écrire », tout en demeurant dans la« puérilité du rêve ». La
littérature
fut-elle pour Kafka ce que la Terre promise fut pour Moïse? En octobre
1921, il
nota que si ce dernier n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que
sa vie
fut trop brève, mais parce que c'était une vie humaine. Commencé au
moment où,
malgré quelques couacs, il composait Richard et Samuel, de concert avec
Max
Brod, le Journal de Kafka l'Éléate est le livre des impossibilités:
impossibilité d'écrire, d'écrire en allemand, ou d'écrire autrement,
impossibilité de tourner le dos à sa judéité, ou de l'accepter
pleinement,
impossibilité d'approuver le célibat, et de supporter la vie en commun
...
Rappelons
seulement les
allusions aux armes d'estoc et de taille dont le Journal est émaillé.
Ce sont
autant d'indications des luttes que menait un « isolé », à couteau tiré
avec le
monde (Klossowski, lui-même admirateur de Soren Kierkegaard, esquisse
dans son
introduction une compaaraison entre Franz Kafka et ce dernier). Résolu
à
défendre sa solitude, à se préserver des relations humaines, jamais
exemptes de
mensonges, il voulait s'en tenir à un cercle limité, mais pur. Cette
résistance
est d'une innocence d'autant plus diabolique que, selon Georges
Bataille, elle
s'accompagne d'un refus de l'action: la manière qu'avait 1'« exclu» de
s'incliner
devant l'autorité est « plus violente qu'une affirmation criée ». Dès
lors,
Maurice Blanchot l'avait relevé dans un texte de 1949, l'impossibilité
est plus
qu'une impossibilité: écrire, c'est s'empêcher d'écrire, mais c'est
aussi «
nommer le silence », réchapper au silence des sirènes.
LINDA LÊ
À LIRE DE FRANZ KAFKA
À la colonie
disciplinaire et
autres récits, éd. Babel.
192 p .. 7.50 €.
Récits posthumes et
fragments,
éd. Babel.
414
p .. 9.50 €.
Lettres à Max Brod,
1904-1924. éd. Rivages. 332 p. à paraître le 9 avril [2008]
*
La
littérature
fut-elle pour Kafka ce que la Terre promise fut pour Moïse? En octobre
1921, il
nota que si ce dernier n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que
sa vie
fut trop brève, mais parce que c'était une vie humaine.
Nếu bạn không tới
được "làng kế bên", thì không phải đời bạn quá ngắn ngủi, nhưng bởi vì
đó
là cuộc đời của một con người!
* Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy
đời
như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ
qua
chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi
sang làng
kế bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng
không đủ
thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh: The next
village.
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely understand,
for
instance, how a young man can decide to ride over to the
next village
without being afraid that –
not to mention accidents – even the span of a
normal
happy life may fall far short of time needed for such a journey".
*
Tiếc gì một lời khen cho
nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương. Người ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas. Ai muốn nhận tên nhận tuổi thì
hãy leo vô diễn
đàn tiếng Anh tiếng Pháp mà viết. Nam Le, Le Thi Diem Thuy, Linda Le
viết tiếng
Anh tiếng Pháp thì OK. Mấy cái tờ báo Mẽo và Tây còn điểm sách, mấy cái
đài thổ
tả như BBC, VOA còn nhắc đến. Rồi cù lần Việt cứ thế mà theo đuôi hô hò
theo.
Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn nhìn nhận.
Lê Thị Huệ, gió-o
*
Tiếc gì
một lời khen, mà sao
lại tiếc nó, không dành cho những người như Nam Lê, Linda Lê?
Tuy viết bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp, họ vẫn là người Việt vậy?
Bọn cù lần
Việt cứ thế mà
theo đuôi hô hò theo?
Không
lẽ lại hô hò theo những
lời đầy cay đắng như trên đây, của bà Lê Thị Huệ?
Diễn
đàn Gió O, như bà Huệ tự
khoe, hoàn toàn do công sức của bà, vậy mà được khá đông anh em đóng
góp bài vở,
hãnh diện như vậy, mà chưa thấy đủ ư? Tin Văn một mình một chợ, chẳng
có ai đóng
góp bài, trừ một anh bạn thật thân, là TT, vậy mà có than thở chi
đâu?
Đâu chỉ
Tin Văn, còn hàng trăm
ngàn diễn đàn khác nữa, của người Việt hải ngoại, họ đâu cần nhà nước
biết đến,
nhưng đâu phải họ không mong mỏi hải ngoại biết đến, trong nước biết
đến, họ đâu cần nhà nước hay bất cứ nhà nào, công nhận?
Mấy
người như Nam Le, Linda Lê...
họ không thể viết văn bằng tiếng Việt, do đó họ bị mất cơ may, là người
Việt ư? Bà thử đọc họ, coi họ có còn là người Việt như Bà ?
Đúng
ra, chẳng nên lên tiếng,
nhưng như vậy, bà Huệ lại càng hiểu lầm, "Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn
nhìn nhận”.
Theo như Gấu được biết Gió O còn được vài ba diễn đàn khác, làm link,
thí dụ Việt Xì Tốp Đi Thôi [Viet-studies], Tin Văn làm sao có được hân
hạnh đó? Bị cả trong lẫn ngoài nước coi như hủi, có sao đâu?
Người
ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas.
Tôi không tin, những người cộng tác với gió-o muốn có mặt ở trong từ
'chúng tôi', của bà Huệ.
Họ bảnh hơn thế nhiều. Và tự trọng, cũng hơn thế, rất nhiều.
Có lần
tôi nhận được một cái mail của NDC, một trong những tác giả viết thường
xuyên cho Gíó O. Ông cám ơn tôi, vì có người "thay mặt tôi," biếu ông
một cuốn Chân Dung Văn Học,
của
tôi, trong có đoạn viết về ông. Hóa ra ông cũng người cùng quê với Gấu
này. Cũng dân Sơn Tây. Cá nhân tôi rất mê những bài viết của ông, và
của một vài tác giả khác nữa, thường viết cho Gió O. Những bài viết của
họ có tính chuyên môn, đặc biệt, và tôi tin chắc, có rất nhiều
độc giả theo dõi.
Có những tác giả như vậy cộng tác, quí hóa đến như
thế, mà cứ la lên là, người ta nỗ lực dìm chết... Lạ thật!
Bữa trước, một ông, trên diễn
đàn Da Mầu cũng đã bực mình vì cái chuyện, khi bỏ nước ra đi, Linda Lê
14 tuổi,
vậy mà quên tiếng Mẹ, làm sao bằng những bậc nữ lưu tăm tiếng của hải
ngoại, Gấu
không dám nhắc đến tên những người này, vì có thể làm cho họ bực mình,
và ông
ta phán tiếp, cộng đồng tung hô Linda Lê như vậy, là quá đủ rồi. Khổ
một nỗi,
Linda Lê không biết tiếng Việt, thì làm sao mà đọc được những lời tung
hô, hay
không tung hô?
Salman Rushdie, trong bài Quê
hương tưởng tượng, cho biết, phản ứng của dân Ấn về cuốn Những đứa con của nửa đêm
của ông: vẽ quá đen xã hội Ấn. Như thế dân Ấn coi bộ rộng lượng hơn
chúng ta. Nam
Lê được tờ báo văn học số 1 trên thế giới khen, không phải chỉ biết
viết về
Mít, về vụ bỏ nước ra đi, mà còn viết đủ đề tài, và đây là một dấu hiệu
đáng mừng.
Cái ông trên Da Mầu mà đọc được những dòng đó, còn bực mình biết mấy:
Mi đã quên
tiếng Mẹ, mà còn quên nỗi đau của Mẹ!
Gấu này
thực sự cũng không hiểu
tại sao khen những người làm cho chúng ta hãnh diện, mà lại bị coi
là cù lần?
Không lẽ khen Lê Thị Huệ viết văn hay quá?
Người ta nỗ lực để
dìm
chết tên tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn
chúng tôi sống.
Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi. Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn của
chúng tôi như không. Ne pas.
Người ta ở đây là
ai? Khó hiểu
quá.
Nếu người ta là nhà nước VC
trong nước, thì mừng quá rồi, có gì đâu mà than van ?
Cả thế giới? Họ đâu có đọc được tiếng Mẹ của chúng ta ?
"Cả một nước Việt Nam coi chúng tôi như không có mặt trên đời". Câu này hàm hồ. Và vô ơn, xổ toẹt những tác
giả trong
nước đã từng đóng góp bài vở cho Gió O. Chẳng lẽ bà Huệ quên, bà đã
khám phá ra
nhà thơ thiên tài Nguyễn Thế Hoàng Linh, và nhờ Gió O mà nay thi sĩ này
cũng được
cả nước biết đến?
Nhà thơ Nga, Brodsky, viết văn
và làm thơ bằng cả hai thứ tiếng, nhưng khi viết thư của ông cụ bà cụ
của ông, ông
viết bằng tiếng Anh, vì ông nghĩ, thứ tiếng ngoại đó sẽ đem đến cho ông
cụ bà cụ
một chút "tự do ngoại", thứ mà họ chưa từng được hưởng. (1) Không lẽ
chúng
ta không
thể nghĩ, như vậy, về những nhà văn của chúng ta, khi họ phải viết bằng
tiếng nước
người?
*
Thú thực, Gấu này, đã từng mong, từ những ngày ở trại tị nạn, nếu qua
được nước người, sẽ khởi nghiệp đời viết thứ nhì của mình, bằng thứ
ngôn ngữ ngày nào còn Yankee mũi lõ ở Miền Nam, Gấu phải làm bồi cho nó!
Nhưng do hoàn cảnh gia đình, do phải lo kiếm sống, nên đành bỏ giấc
mộng lớn này, và đây có lẽ là kỷ niệm buồn nhất trong đời viết văn của
Gấu! NQT
(1)
Tôi
viết thư nhà
này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự
do… có được thực tại dưới “qui tắc ngoại
về lương
tâm” [a “foreign code of conscience”]…. Viết về họ bằng tiếng Nga
chỉ có
nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý,
do cái
việc hư vô hóa một cách máy móc kia.
Brodsky: Thư Nhà
Tiếc
gì một lời khen cho
nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương. Người ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas. Ai muốn nhận tên nhận tuổi thì
hãy leo vô diễn
đàn tiếng Anh tiếng Pháp mà viết. Nam Le, Le Thi Diem Thuy, Linda Le
viết tiếng
Anh tiếng Pháp thì OK. Mấy cái tờ báo Mẽo và Tây còn điểm sách, mấy cái
đài thổ
tả như BBC, VOA còn nhắc đến. Rồi cù lần Việt cứ thế mà theo đuôi hô hò
theo.
Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn nhìn nhận.
Lê Thị Huệ, gió-o
Tiếc gì một
lời khen cho nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương.
Cái trò áo thụng vái nhau,
hay ngược lại, ỉa vào miệng nhau, là chuyện thường ngày ở huyện, trong
giới cầm
bút, mắc mớ gì đến chuyện bị xua đuổi ra khỏi quê hương? Viết như thế,
thì đâu
cần gì đến tài năng? Cứ áo thụng vái nhau thôi. Vả chăng, hữu xạ tự
nhiên hương,
một khi viết như thế, là đã hơi bị yếu, là đã thú nhận, văn chương của
chúng
tôi thì cũng thường thường bậc trung mà thôi.
Được như vậy, theo tôi, là cũng tuyệt vời rồi, cớ sao than để VC...
cười cho.
Đọc, bỗng nhớ đến thái độ của nhà thơ Nga, Brodsky, thi sĩ chẳng bao
giờ là nạn nhân. Nhà văn, nhà thơ, bảnh ở chổ, đếch bao giờ cho thiên
hạ thấy nỗi đau của mình.
Vả chăng, nếu văn chương chỉ là chuyện áo thụng vái nhau, hoặc ị vào
miệng nhau, thì tốt hơn hết, đừng vái, đừng ị, hoặc, cần quá, thì làm
những công việc đó, ở chỗ khác.
*
Bác
ạ, dịch The Grapes of Wrath
thành "Chùm nho
phẫn uất/nộ" là sai phải không bác?
Đâu có sai, Tây mũi lõ dịch là Les
Raisins de la
colère, Chùm nho giận dữ, cũng ý đó. Thân, NQT
Cháu hỏi bác vì.... cái nhan đề Chùm
nho phẫn nộ này cũng bị cụ DT phẫn nộ, chửi toáng lên
không biết thằng nào dịch mà ngu thế...
Lí giải của bác DT thế này:
...là tên cuốn sách dịch từ The
Grapes of Wrath của John Steinbeck, in đi in
lại ở VN kg biết bao nhiêu lần rồi. Cụ DT nói đó là một thành ngữ
trong Kinh Thánh, mang nghĩa ẩn dụ...
...Steinbeck
had unusual
difficulty devising a title for his novel. The Grapes of Wrath , suggested by
his wife, Carol Steinbeck, was deemed more suitable than anything the
author
could come up with. The title is a reference to some lyrics from The Battle
Hymn of the Republic , by Julia Ward Howe:
Mine eyes have seen the glory of the coming of the Lord:
He is trampling out the vintage where the grapes of wrath are stored;
He hath loosed the fateful lightning of His terrible swift sword:
His truth is marching on.
These lyrics refer, in turn, to the biblical passage Revelation 14:19-20, an
apocalyptic appeal to divine justice and deliverance from oppression in
the
final judgment.
And the angel thrust in his sickle into the earth, and gathered the
vine of the
earth, and cast it into the great winepress of the wrath of God. And
the
winepress was trodden without the city, and blood came out of the
winepress,
even unto the horse bridles, by the space of a thousand and six hundred
furlongs. [Wikipedia]
Cháu đọc đi đọc lại, vẫn thấy chuyển dịch The Grapes of Wrath thành Chùm nho
phẫn nộ chẳng có gì là sai cả, như ông DT nói. Phải không bác?
Hay cứ phải cái kiểu Đại gia Gastby mới được, bác nhỉ?
Đúng như thế. Cứ phải dịch như
thế, rồi đi một đường tiểu chú. Cái tít Âm thanh và Cuồng nộ, mà không đi
một đường
tiểu chú thì bố ai mà hiểu được. Ở đây cũng vậy. Cái tít Light in August, của
Faulkner, the title of the book was inspired by the special light
that illuminates Mississippi in August, which seems to come from the
far
past. This underlines Faulkner's interest in the weight of history and
the
manner in which we relate to our pasts, [Wikipedia], nhưng theo như Gấu
này, đã đọc được ở đâu
đó, nó còn là một ‘phương ngữ’ có nghĩa là “đi đẻ, bể bầu”, câu chuyện
một cô gái
đi tìm thằng Sở Khanh, cha đứa trẻ sắp sinh của cô.
Nói chung, cái tít là khó nhá
nhất, chứng cớ nhãn tiền Đại gia
Thăng Long [TL].
Vũ Bằng, tuy nằm vùng, nhưng cũng đã từng chọc quê
nhà nước ta, về cái tít cuốn sách của ông, được Đảng o bế, kể câu
chuyện đám
cai thầu bóc lột công nhân, và đã từng được đưa vô finalist giải thưởng
Hội Nhà
Văn, khiến ông hoảng quá, bỏ chạy vô Nam, vì cuốn Cai của ông, chỉ có nghĩa
là cai thuốc phiện!
*
Nói
chung, cái tít là khó nhá
nhất, chứng cớ nhãn tiền Đại gia
Thăng Long [TL].
Vũ
Bằng, tuy nằm vùng, nhưng cũng đã từng chọc quê
nhà nước ta, về cái tít cuốn sách của ông, được Đảng o bế, kể câu
chuyện đám
cai thầu bóc lột công nhân, và đã từng được đưa vô finalist giải thưởng
Hội Nhà
Văn, khiến ông hoảng quá, bỏ chạy vô Nam, vì cuốn Cai của ông, chỉ có nghĩa
là cai thuốc phiện!
*
Tiên sư bọn phản động Ba
Chấm, Trang hỉ?
Nguồn
Đọc bài này, Gấu lại nhớ câu
chuyện tiếu lâm, kể chuyện tại lớp học mẫu giáo. Một cháu kể là, buổi
sáng, bố đi
làm, hôn mẹ ở má phải, buổi chiều về nhà, hôn má trái, buổi tối đi ngủ,
hôn ở môi…
rồi cho thu vô dĩa 33 tours. Cô giáo mẫu giáo nghe ‘hôn ở môi’, nhạy
cảm quá, bèn
xóa bỏ, đến khi phát ra, thì nó như thế này… buổi tối bố cháu “cạch
cạch, cạch
cạch…. má cháu…”!
Hoan hô bọn phản động “cạch cạch,
cạch cạch..”, Trang hỉ?
*
Nhìn chung là hồi nhỏ tôi
không có đọc chưởng. Một lần tình cờ vớ phải một tập nào đó trong Ỷ thiên Đồ
long ký (lừng danh ở Việt Nam với
cái tên Cô gái Đồ Long) rơi trúng
đoạn Tạ Tốn bị mù trên đảo mà vẫn gây kinh hoàng cho vợ chồng nhà kia,
cuối
cùng phải nghĩ ra kế đào cái hố to nhốt thằng chả xuống cho yên chuyện.
Cứ lặp
đi lặp lại như thế mãi, cả tập chưa giải quyết xong một cái hố. Đâm ra
chả thèm
đọc nữa.
Blog
Nhị Linh
Tay NL
này quả là không có đọc
được chưởng, không chỉ hồi nhỏ, hay hồi nhớn. Làm gì có đoạn “Tạ Tốn bị
mù
trên đảo mà vẫn gây kinh hoàng cho vợ chồng nhà kia, cuối cùng phải
nghĩ ra kế
đào cái hố to nhốt thằng chả xuống cho yên chuyện” ?
Đọc Kim
Dung như vậy, thảo nào!
Tạ Tốn,
bị thầy là Thành Khôn
hãm hiếp vợ, giết con, đốt nhà… căm thù quá, nhưng võ công không hơn
Thầy,
nên đi cướp bí kíp Thất Thương Quyền của Không Động, và do học Thất
Thương Quyền,
nên bị nội thương, lâu lâu nổi cơn điên, chính vì vậy, toan hãm hiếp
Hân Tô Tố,
vợ Trương Thuý Sơn, bị nàng phóng độc châm làm mù mắt. Chính tiếng khóc
của
Vô Kỵ, đứa con trai sơ sinh của cặp vợ chồng nhà kia làm Tạ Tốn thoát
cơn khùng,
và sau đó, nhận đứa con trai làm con nuôi, dậy võ công cho nó, và sau
này, bỏ
hoang đảo trở về đời, khi nghe tin Vô Kỵ chết….
Cái vụ
Thành Khôn sát hại vợ
con Tạ Tốn thì cũng nằm trong âm mưu huỷ diệt Minh Giáo. Truyện Kim
Dung lớp
lang trùng trùng, sóng sau đè sóng trước, nhân quả luân hồi, sinh sinh
diệt diệt,
những
ai không mê chưởng, và không đủ kiên nhẫn, đọc vài trang, vài dòng, là
chịu
thua. Làm gì có cái đoạn "nghĩ ra kế đào cái hố to nhốt thằng chả xuống
cho yên
chuyện", nếu Gấu nhớ không nhầm?
Cũng
thế, Tuyết Sơn Phi Hồ,
tuy ngắn, nhưng tiền thân của nó, là từ Bích Huyết Kiếm, Lãnh Nguyệt
Bảo Đao, mà
ra. Cái vụ vợ Miêu Nhân Phượng bỏ chồng theo bạn chồng, là Điền Qui
Nông, cũng đầy
nguyên uỷ, và còn liên quan tới kho tàng của Sấm Vương, liên quan tới
vụ tự sát
chết theo chồng của vợ Thần Đao Hồ Đại Đởm… và còn liên can đến cái
triết lý
oan oan tương báo của Đông Phương, ui chao, đám tà ma ngoại đạo làm sao
mà hiểu nổi.
Gấu này, đọc mấy ông mấy bà tự xưng là đệ tử chân truyền của Kim Dung,
thí dụ
như Vũ Đức Sao Biển, Huỳnh Ngọc Chiến này nọ, bàn về Kim Dung loạn xạ
cả lên, đã
buồn cười rồi, thành thử chẳng thèm để ý đến những ông phán nhảm hồi
nhỏ không đọc
chưởng. Về già kia mà còn không đọc được thì nói gì con nít, đàn bà,
thí dụ bà
chủ quán cá?
*
… mà cứ ngóng hỏa hầu khéo mà
tẩu hỏa nhập ma như các ác ma Đông Phương Bất Bại đột nhiên ham nghề
khâu vá...
Blog Nhị Linh
ĐPBB sở dĩ biến thành đàn bà,
là do luyện Quì Hoa Bảo Điển, đệ nhất võ công trong thiên hạ, và, việc
đầu tiên là vung dao tự thiến.
Chúng ta thử nghĩ, có thứ võ công
nào "kẻ thù nào cũng đánh thắng"?
Và bèn suy ra là, Quỳ Hoa Bảo
Điển, là của me-xừ Marx mà ra!
Kim Dung cảnh cáo, bất cứ một
thứ triết học, võ học… nào cũng có khiếm khuyết, tin hết mình vào nó,
là mang họa.
Còn có thứ chân lý nào hoàn hảo
cho bằng đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, rồi sau đó, ai cấm nổi dân Mít tiến
lên thế
giới đại đồng, xây dựng con người hoàn toàn theo lý thuyết của Marx?
Vậy mà kết cục ra sao?
Cái giang sơn của LKP chẳng
phải là hậu cung của ĐPBB ư? Một cõi thần
tiên, mà cái giá phải trả là ba triệu con người của cả hai miền?
Những câu tung hô “Ngàn năm
trường trị, thống nhất giang hồ….” của đám đệ tử ĐPBB so với những câu
“Ba Dòng
Thác Cách Mạng, Kẻ Thù Nào Cũng Đánh Thắng…” đâu
có khác?
Note: Lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là một cách đọc chơi, vài chương chưởng, nói
theo giọng một phê bình gia hải ngoại. Gấu này thực sự không tin, KD
viết chuyện chưởng là để chọc quê đám đệ tử của Marx!
*
Tạ Tốn bị Hân Tố Tố lừa chọc
mù mắt nhưng hai vợ chồng Tố Tố vẫn không kiềm chế nổi, vì Tạ Tốn nghe
tiếng
gió là biết hướng ra chiêu liền. Vợ chồng kia mới nghĩ ra cách đào một
cái hố
thật sâu trước cửa hang, Tạ Tốn sa xuống dưới đó. Chi tiết này chắc
chắn là có,
bác không nhớ cũng đâu có nghĩa là không :))
Cheers,
NL
Xin lỗi, không nhớ đoạn này, nhưng giả như có, thì cũng thường thôi, ấy
là vỉ Tạ Tốn là một trong Tứ Trụ, bốn Đại Pháp Vương của Minh Giáo, làm
sao vợ chồng Thuý Sơn đối phó cho nổi?
|