Những
đại gia của môn phái
tiểu thuyết lịch sử.
Alexandre Dumas: Quá khứ như
là đam mê và như là phiêu lưu.
Theo phụ trang văn học, báo
Thế Giới số 28 tháng Bẩy 2000, trong thiên hạ chỉ có ba…đại sư thuộc
môn phái
tiểu thuyết lịch sử, theo nghĩa, đã đẩy thể loại này tới mức thượng
thừa. Đó là
(nhà văn người Scotland)
Walter Scott, (nhà văn người Pháp) Alexandre Dumas, còn người thứ ba,
thuộc
loại ẩn sư, nghĩa là ít được người đời biết tới: một nhà văn người Phần
Lan,
Mika Waltari (1908-79). Ba ông chiếm ba
bồ chữ: phiêu lưu thuộc Dumas, nghiên cứu (analyse), Scott, và tưởng
tượng
(imaginaire), Waltari.
Bài viết (1 tháng
Giêng 1971), “Quá khứ như là
đam mê và như là phiêu lưu” (Le passé comme passion et comme aventure),
của
Jacques Goimard, được đăng lại trên số báo đã dẫn, là về Alexandre
Dumas. Ông
này thì độc giả người Việt quá quen biết, nào là Ba Người Ngự Lâm Pháo
Thủ, Hai
Mươi Năm Sau, Nữ Hoàng Margo… Giới bình dân còn rành cả ông Dumas con,
qua vở
tuồng cải lương nổi tiếng, Trà Hoa Nữ.
Vào năm 1842, tại Paris,
Walter Scott đang là “thần tượng”, và không thiếu những nhà văn thuộc
trường
phái lãng mạn muốn thử thời vận “một lần nữa trong đời”, bằng cách “lần
ngược
lịch sử”, hay nói theo J. Goimard, họ tìm cách “Pháp hóa” thể loại văn
chương
mà Scott đã sáng chế ra: Vigny với Cinq-Mars; Hugo, Nhà Thờ Đức Bà
(Notre Dame
de Paris); Balzac, Les Chouans; Mérimée, Chronique du règne de Charles
IX.
Nhưng thể loại (tiểu thuyết) lịch sử cũng khó chơi. Trong cuốn Les
Louves de
Machecoul, Dumas đưa ra hai chị em song sinh. Một cô, tính tình mơ
mộng, ôm mớ
tiểu thuyết; một cô, đam mê cuồng nhiệt, ôm mớ sách lịch sử. Làm cách
nào “hội
nhập” một cách hài hòa, hai khuynh hướng trái ngược trên? Nói bốn ông
nhà văn
trên không thành công, khi “Pháp hóa” Scott, là hơi quá đáng, nhưng vẫn
còn một
“kẽ hở”, ở trong bí quyết viết tiểu thuyết lịch sử của Scott: ông “làm
phiền”
độc giả với những lời mào đầu lòng thòng, trong khi “vấn đề” là: phải
“nói về
những nhân vật sau khi cho xuất hiện”, thêm nữa, tuy Scott thật đáng nể
qua
miêu tả những tập tục, trang phục, và tính tình nhân vật, nhưng ông
không “quen
tay” với cái món: đam mê.
Vả chăng, Lịch sử vốn là một
“thiên đàng”, của những ông nhà văn fơi-ơ-tông (viết nhiều kỳ cho nhật
báo), mà
Dumas là một “chuyên gia”. Lịch sử dâng
hiến chất liệu “làm sẵn, cứ thế mà xài”, đúng thứ ông cần: làm sao viết
nhanh,
viết khỏe, viết ào ào, nếu không “chôm chĩa”, từ lịch sử, từ những hồi
ký,
những bình luận thời cuộc? Nó (lịch sử) còn ban cho ông một “thủ đoạn
thuận
tiện” (alibi commode) khi xử trí những biến động đảo ngược: chúng trở
nên có
thể chấp nhận được, là bởi vì đã từng xẩy ra trong lịch sử. Và, độc giả
tiểu
thuyết không cần tin, anh ta cần ngạc nhiên. Sau hết, Lịch sử chính là
một
khung cảnh “đẹp như mơ”, dễ dàng thoả mãn cơn đói khát của những độc
giả ham
đọc sách.
Nhưng tất cả
những gì nêu trên, cũng trở thành
vô bổ, nếu Dumas, chính ông ta, không phải là một người say mê lịch sử.
Phần
lớn những “thảm kịch” ông viết ra, đều liên quan tới lịch sử. Nếu những
nhà văn
thuộc trường phái lãng mạn say mê những giấc mộng lớn, những tổng thể
(les
sommes), như Trò Đời (Comédie humaine,
Balzac), Lịch sử nước Pháp (Michelet), Truyền Kỳ Những Thế kỷ (Hugo)…,
Dumas
cũng đã nghĩ tới một Trò Đời của quá khứ, nhưng sau cùng, ông từ bỏ
tham vọng này,
bởi vì một khi sắp xếp những tác phẩm của mình theo một trật tự, tức là
đưa ra
một ý hướng đạo đức nào đó cho lịch sử, như vậy là phản lại nhu cầu
thoát ra
khỏi nó, làm một con người được xóa sổ, như cả một đời cô Kiều đã từng
mong
ước, và sau bao trầm luân, đã đạt được: Đoạn Trường sổ rút tên ra…
Lạ một điều, như
tác giả Lá Huyết Thư mà tôi
chẳng thể nào nhớ nổi tên, Dumas đã từng tiên đoán nhân dân Pháp sẽ làm
cách
mạng và nắm quyền lực, ngay từ năm 1833, trong tác phẩm Gaule et France.
Walter Scott: Một
lịch sử nhân bản (une
histoire humaine)
-Trí nhớ của tôi
chỉ hoạt động một chiều. Tôi
chỉ nhớ chuyện này chuyện nọ, một khi nó đã xẩy ra. Alice nói.
-Thật đáng thương
cho thứ trí nhớ chỉ làm việc
giật lùi. Hoàng hậu nói.
-Bà nhớ hay nhất,
là về những chuyện gì?
-Ô, những chuyện
(sẽ) xẩy ra vào tuần sau,
tiếp theo tuần sắp tới. Hoàng hậu thản nhiên trả lời.
(Alice
ở trong Xứ Huyền Ảo)
Tác giả Lá
Huyết Thư, một cuốn tiểu thuyết
lịch sử về thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh, đã tiên đoán những chuyện
“tình bắc
duyên nam” của những năm 1954, hay những cuộc tình sau 1975….
Alexandre Dumas
đã từng tiên đoán, nhân dân
Pháp sẽ làm cách mạng.
Cả hai tác giả
trên cho thấy, ngay cả chuyện
nhìn lại quá khứ nhiều khi cũng phải dự đoán.
Nhớ tương lai.
Tưởng tượng quá khứ. Cứ như
truyện thần tiên!
Bởi vì, những
cuốn tiểu thuyết lớn là những
câu chuyện thần tiên lớn (Nabokov). Cũng theo nghĩa đó, nhà văn Pháp,
Anatole
France, cho rằng: Lịch sử không phải là một khoa học. Nó là một nghệ
thuật. Và
người ta chỉ thành công ở đó, nhờ tưởng tượng. (L’histoire n’est pas
une
science, c’est un art. On n’y réussit que par l’imagination).
Hay như nhà văn
Pháp, Guizot:
-Bạn muốn (viết)
Tiểu thuyết? Hãy đọc Lịch sử!
Nhưng thế nào là
Tiểu thuyết? Thế nào là Lịch
sử?
Hãy đọc Lịch sử.
Nhưng Lịch sử nào? Lịch sử
của những ông vua, bà chúa, hay của thường dân?
Theo Georg
Lukacs, một triết gia Mác xít nổi
tiếng, tiểu thuyết là để diễn tả tính vô gia cư “siêu việt”. Nói nôm
na, nó
diễn tả thân phận lưu vong của con người, một khi thần thánh đã bỏ đi.
Trong
lịch sử văn chương Âu châu, nó là thể dạng thứ ba sau hùng ca (epic),
và bi
kịch (drama, tragédie). Nó cưu mang (embody) cơn khủng hoảng cảm tính
của
Âu-châu.
Cuộc Cách mạng
Pháp và thời đại Nã Phá Luân
cho thấy, những thường nhân - cuộc sống vốn chỉ quẩn quanh xó nhà, hoặc
ở bên
ngoài lịch sử - nhận ra một điều: họ có mắc míu tới lịch sử, hay ngược
lại. Đây
là những đòi hỏi mang tính "toàn trị" (totalitarian claims) đưa đến
chủ nghĩa Marx. (Bởi vậy, thật không có gì là cường điệu khi nói, chủ
nghĩa
Cộng sản là con đẻ của Cách mạng Pháp: lịch sử là "của chúng ta"
chứ không dành riêng cho đám nhà nghề,
hoặc giai cấp ở trên. Điều này giải thích tại sao cuộc cách mạng vô sản
lại bắt
đầu ở Nga, mà không ở một nước nào khác: giai cấp quí tộc Nga vẫn coi
tiếng
Pháp mới là thứ tiếng "đáng nói" nhất. Paris luôn luôn là thiên đàng của đám
trí
thức Nga, Cộng-sản hay không Cộng-sản. Nó cũng giải thích những mắc míu
kéo dài
tới tận bây giờ giữa những người Cộng-sản, chủ nhân mới của đất nước
Việt Nam,
và
"ông thầy cũ" là nước Pháp.)
Không giống như
những đạo quân thế kỷ 18, vó
ngựa viễn chinh của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt
Âu-châu: ý
thức chính trị của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình
thường. Lịch
sử không còn là những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của Scott
đã manh
nha sự thay đổi, với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và sự đa dạng của
sự kiện
lịch sử. Lukacs là người đầu tiên nhìn ra điều này.
David Daiches,
trong bài viết “Walter Scott,
một lịch sử nhân bản”, (13, tháng tám 1971 đăng lại trên phụ trang văn
học báo
Thế Giới số 28 tháng Bẩy 2000), cho rằng Scott vẫn còn được đọc, bởi vì
độc giả
bây giờ tìm thấy ở ông, một điều khác nữa, chứ không phải chỉ là những
câu
chuyện tình ái lãng mạn, và chiến tranh với những trận đánh. Hầu hết
những nhà
phê bình hiện thời, từ những trường phái khác nhau, đều coi Scott, như
là một
tiểu thuyết gia. Họ nhìn thấy ở ông, một tầm nhìn lịch sử; và cái viễn
ảnh mang
tính lịch sử đó đã nẩy nở cùng với nỗi băn khoăn của ông về những tương
quan
giữa truyền thống và tiến hóa (évolution). Trong mỗi giai đoạn của công
việc
tìm tòi chất liệu lịch sử, Scott chỉ ra, ảnh hưởng do những thay đổi
chính trị
và xã hội, đối với cách hành xử của từng con người riêng tư. Tất cả trở
thành
cụ thể: lịch sử nhập thân (incarnée) bởi những nhân vật bình thường,
những dân
quê, những người lính, những ông lái buôn, những người làm luật. Những
nhân vật
nổi tiếng trong lịch sử cũng xuất hiện, lẽ dĩ nhiên. Nhưng cái nguyên
liệu ròng
của nó, là ở những con người bình thường. Những con người, nói theo như
tác giả
bài viết, bị kẹt cứng ở trong lịch sử, bị lịch sử tóm lấy, chính họ mới
là
những người mang trên mình, ý nghĩa của lịch sử.
Điều quan trọng
nữa ở Scott: ông từ chối bắt
lịch sử mang một ý nghĩa đạo đức. Nếu ông quan tâm tới những tương quan
giữa
truyền thống và tiến bộ, tới những cuộc tranh chấp tiếp nối từ thế hệ
này qua
thế hệ khác, ông còn là một tiểu thuyết gia về một cõi người ta, thật
riêng tư,
thật nhân bản, của từng con người. Ông từ chối chiếu rọi những chuyển
động xã
hội, dưới ánh sáng của đạo đức. Những tay vô địch, những kẻ tiên phong
của tiến
bộ trong những cuốn như Guy Mannering
hay trong La Fiancée de Lammermoor… đều xấu xa, “thiếu đạo đức”
(moralement
mauvais). Nhưng ngược lại, những nhân vật nổi cộm, đại diện cho tiến bộ
ở trong
Waverley
và Rob
Roy là những con người tốt. Scott chẳng
thèm để ý đến cái gọi là “vì sự nghiệp chung”… qua những nhân vật của
mình.
Chính điều này làm cho những nhân vật của ông cứ thế sống mãi: họ sống
bằng
niềm cảm thông, bằng sự nhân ái, như là tác giả, người sáng tạo ra họ.
Trên tất cả,
Scott, bằng sức tưởng tượng lịch
sử sáng ngời, được tác giả cứ thế làm cho sinh sôi, nẩy nở mãi ra, qua
cái đọc,
cái hiểu, cái sống, cộng thêm cảm quan sâu đậm về văn học truyền thống
dân
gian, qua truyền khẩu, cộng thêm sự quan tâm của ông, về vị trí của hồi
nhớ ở
trong những vấn đề liên quan tới con người… tất cả đã cho phép ông sản
xuất ra
những cuốn tiểu thuyết vẽ ra một cách thật cảm động, thật độc nhất vô
nhị, và
cũng thật dũng mãnh: cuộc dấn thân của con người vào lịch sử. Cùng với
“cuộc
chơi chết người” này, là trách nhiệm, bổn phận, tâm lý, nỗi sợ hãi… của
từng cá
nhân chúng ta trước… gánh nặng lịch sử!
Nhưng ít có nhà
văn dám đẩy tiểu thuyết lịch
sử tới mức thượng thừa như nhà văn Mika Waltari, người Phần Lan. Ông
sinh năm
1908, mất năm 1979. Đây đúng là một ảo thuật gia, với những trò phù
thuỷ thoát
thai từ quyền năng của mộng mơ, đúng như Nabokov định nghĩa, tiểu
thuyết lớn là
những câu chuyện thần tiên lớn.
Cuốn tiểu thuyết Sinouhé,
người Ai Cập của Waltari, được xuất bản tại xứ sở của ông vào năm 1945,
mãi tới
năm 1979 mới được dịch ra tiếng Pháp, và được đón hân hoan đón nhận.
Cuốn tiếp
theo, L’Etrusque, là câu chuyện kể của một nhân vật tên Turms - một
trộn lẫn
giữa nhân vật của hùng ca Homer và của tiểu thuyết sau đó. Anh sống ở
thế kỷ
thứ Năm trước khi Chúa Cứu Thế xuất hiện. Chẳng nhớ gì về tuổi thơ của
mình. Bị
sét đánh, và do đó, được thần thánh chọn lựa cho một sứ mạng màchính
anh ta
phải làm sáng tỏ. Bị thần thánh xúi giục, anh ta đốt ngôi đền Cybèle ở
Sardes,
và vì tội ác này, anh ta bị kết án suốt đời phải lang thang, tham dự
vào những
cuộc phiêu lưu, như những nhân vật của Homer. Theo chân cướp biển
Dionysios
cùng những chuyến ăn hàng của anh ta; bị hăm dọa bởi những người
Carthage trị
vì biển cả; chiến đấu bên cạnh những hậu duệ của Hercule, chỉ để giành
giật
“vương miện của một con chó”, bị người đẹp Aphrodite mê hoặc, bắt cóc
nàng rồi
sau đó bị nàng phản bội… qua bao hiểm nguy, anh sau cùng hiểu được sự
bí mật về
những quyền năng kỳ lạ của mình. Turms chính là một “mutant” (một sinh
vật đang
trong dạng phát triển hoặc thay đổi, như trong truyện khoa học viễn
tưởng),
giống như Orphée của thi sĩ người Đức, Rilke. Sự bí mật của anh được
ghi lại ở
trong văn minh và truyền thống mà anh khám phá ra được, ở cuối tiểu
thuyết. Đó
là văn minh và truyền thống của (một xứ sở) Etrurie huyền bí.
Nền văn minh này trải ra
quanh con hồ Bolsena, trên một khu vực rộng hơn là vùng Toscane hiện
giờ. Chẳng
có gì làm độc giả ngạc nhiên, khi Walrari bị quyến rũ bởi nó. Bởi vì từ
xa xưa,
từ nhiều đời tiếp nối, nó đã từng quyến rũ không biết bao nhiêu giống
dân Tây
Phương. Những hậu duệ của một La Mã đã từng mơ ước một vùng đất, thiên
đàng hạ
giới, như nhà sử học Hy Lạp thế kỷ IV, Théopompe, đã từng mơ ước: một
nơi chốn
mà “những người đàn bà cứ khơi khơi trần như nhộng, trong mọi công ăn
việc làm,
trong mọi giao tiếp, thường là với đàn ông, và đôi khi, giữa mấy bàø
“mí nhau”,
sẵn sàng ngồi bàn, với bất cứ một người nào vừa mới gặp. Cũng là chuyện
bình
thường thôi: họ nhậu rất cừ, và rất diệu nghệ.”
Một xứ sở như
thế, chỉ nhờ quyền năng mộng mơ,
mới có thể tạo ra nổi!
Theo
Philippe-Jean, qua số báo đã dẫn ở trên,
không thể có một thời đại nào mà không có lịch sử tiểu thuyết (của thời
đại
đó). Bị chê bai, ghét bỏ bởi những “chính chuyên” (puristes): mấy ông
sử gia
bới lông tìm vết, chi tiết này sai, chi tiết này đúng, mấy ông nhà văn
coi đây
là thứ mạt hạng, do phương pháp dễ dãi (ở trang mười, Nguyễn Huệ còn
hàn vi,
tới trang thứ một trăm, chắc là ông ta đang ra lệnh cho nghĩa quân may
cờ đào,
tới trang hai trăm, đại thắng quân Thanh, thí dụ vậy!) Nhưng đây đúng
là một
mảnh đất lý tưởng cho những nhà văn muốn… lùi xa thời đại của mình, mà
vẫn có
thể nói thật đầy đủ về nó. Một bức tranh về con người hiện đại trong
mặt nạ của
“tiền nhân”. Một trong những chiêu thức tuyệt vời của Kim Dung: “cách
sơn đả
ngưu”!