Ghi
|
Buồn
Nôn, La Nausée
Tôi
thấy quanh tôi những mầu sắc quay lòng vòng, một cách chậm chạp, tôi
muốn ói. Và như vậy đó: kể từ đó,
Buồn Nôn tóm lấy tôi, quyết không rời
Khi
Buồn Nôn vừa ra
lò, 1938 có
hai tay viết về nó, một, bạn lâu năm của Sartre, Paul Nizan, một, sau
thành bạn,
và sau, thành kẻ thù của Sartre: Camus.
Paul Nizan.
M. Jean-Paul Sartre mà như tôi
biết là giáo sư triết, và đã từng xb một cuốn sách nổi cộm về Những hình ảnh, vừa mới cho ra lò một cuốn
tiểu thuyết, và đây là một khởi đầu thật hách xì xằng, trong thể loại
văn học này.
Tôi sẽ nói là M. Sartre là một Kafka Tây, do ở tài năng của ông, trong
khi miêu
tả sự ghê rợn, l’horreur, của một số hoàn cảnh trí thức, nếu như tư
tưởng của ông,
khác hẳn tư tưởng của tác giả Vạn lý Trường
Thành TQ, không hoàn toàn xa lạ với những vấn đề đạo đức. Kafka
luôn tra hỏi
về ý nghĩa cuộc đời. Sartre chỉ tra hỏi về sự kiện hiện hữu ở đời [le
fait de l’existence],
một đòi hỏi về thực tại, trực tiếp hơn, tức thời hơn, so với những phát
triển
nhân văn và xã hội của cuộc sống, và điều này nhiều khi vượt ra khỏi
cuộc sống.
Buồn Nôn, nhật
ký của Antoine Roquentin, là một cuốn tiểu thuyết về sự cô đơn tuyệt
đối… Chẳng
nghi ngờ chi, đây là một cuốn tiểu thuyết triết học số 1, đầu bảng [un
roman
philosophique de premier plan]: Chúng ta biết, kể từ Voltaire, thứ tiểu
thuyết
triết học ở Tây bị coi rẻ, và để ở phiá bên dưới, thứ gọi là ngụ ngôn,
fable.
Cuốn tiểu thuyết của Sartre chẳng mắc mớ gì với thứ làm xàm, bá láp,
frivole, này.
Nó đem đến cho chúng ta một ý nghĩ thật rõ ràng về điều có thể gọi là
một nền văn
chương kết hợp, associée, với triết học về hiện sinh. Người ta thật lầm
lẫn khi
vội vàng ghép Sartre với Martin Heidegger. Cái gọi là âu lo, angoisse,
ở triết
gia người Đức này, là về hư vô. Còn ở Sartre, là về hiện hữu. Cái thứ
luật,
loi, đối với một con người cô đơn, trần cô đơn, thì không phải là sự sợ
hãi hư
vô, mà là sợ hãi hiện hữu. Phát giác này còn dẫn chúng ta đi xa.
Hữu Thể và Hư Vô
Tout
existant nait sans
raison, se prolonge par faiblesse et meurt par rencontre. Sartre: La
Nausée
Mọi
hiện hữu đều vô lý, kéo
dài do yếu đuối, chết do tình cờ.
Hay:
Cái sống nào mà chẳng cứ thế
lòi ra chẳng cần lý do, cứ thế lòng thòng do
chết
nhát, và chết đứ đừ, do ngẫu nhiên
Sartre: Buồn Nôn.
*
Tout
existant nait sans
raison, se prolonge par faiblesse et meurt par rencontre.
Đó
là câu văn 'định nghĩa' Buồn Nôn, có thể nói như vậy.
Simone
de Beauvoir kể, trong La Force de
l'âge, sau khi cuốn La légende
de la
vérité của Sartre bị nhà xb vứt vô thùng rác, ông bèn tính viết,
vào Mùa Thu
năm 1931, một tác phẩm mới mà ông đặt tên tạm cho nó là "factum sur la
contingence'.
factum, gốc gác của của nó, từ 'pamphlet' [bài văn đả kích], của
thế kỷ thứ 18,
và là quá khứ phân từ của động từ tiếng La Tinh, facere (faire: làm), được
Nizan và Sartre, và Rabelais, trước đó, sử dụng để gọi một bản văn mà
thể loại
của nó chưa được xác định, và nội dung còn phải bàn cãi. Trong bản
thảo
đầu tiên, nó rất giống cuốn bị nhà xb chê: Lèm bèm, une
longue et abstraite méditation, về ngẫu nhiên, tình cờ. Và bà
bèn đề
nghị
Sartre hãy thêm vô tí mùi mẫn, tí nghẹt thở, suspense, thì mới ăn khách,
và Sartre bèn gật đầu [J’insistai
pour que Sartre donnât à la
découverte
de Roquantin (sic) une dimension romanesque… FA p.124]. Đây là
“chiến
dịch thứ
nhất”.
Bản
thảo đầu hì hục mất hai năm.
Nhưng
sau đó, Sartre khám phá
ra Husserl, và chính sự khám phá ra hiện tượng học đã để một dấu ấn
nặng
nề lên Buồn
Nôn, lên cái gọi là ‘ngẫu nhiên’. Đây là ‘chiến dịch thứ nhì’.
Thời
gian 1933-1934, Sartre từ
giã trường trung học ở Havre, qua Học viện Pháp ở Berlin, và tại đây,
ông đọc Ideen,
một tác phẩm quan trọng của Husserl, xb tại Fribourg, năm 1913, và chỉ
được dịch
ra tiếng Tây vào năm 1950. Thế là buổi sáng đọc Husserl, ghi chú, viết,
sau đó
lòi ra cuốn La
Transcendance de l’ego; buổi chiều dành
cho “factum’.
Chiến
dịch thứ ba, vào năm
1935, kéo dài 1 năm, và đưa đến hoàn
thành bản
thảo. Cái tít thay đổi, ‘Factum sur la contingence’ sửa thành “Nỗi
buồn”, “Melancholia”.
Trong chiến dịch thứ ba, có Olga, nữ đệ tử của de Beauvoir, và là người
Sartre chết mê chết mệt, tham dự.
Và
thời gian thứ tư [chiến dịch
thứ tư] của sự phát triển một cuốn sách thường là của sự bi quan, chối
từ, phủ định,
le quatrième temps de l’élaboration du livre est négatif: c’est celui
de l‘autocensure,
theo như nhận định của Michel Contat và Michel Rybalka. Thời gian này,
kéo dài
hai năm, từ 1936 tới 1938. Sau đó, Nizan trịnh trọng mang bản
thảo tới trình Gallimard. Bị từ
chối.
Sartre đau quá, sụm luôn!
*
Phong
thần bảng
Anh
Môn
Hà
Nội là cái quái gì!
Tôi
còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
Thanh
Tâm Tuyền
Le
Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như
trên, là “bản gốc”,
cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác
giả cuốn
Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu
nhà văn nổi tiếng
Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh
Môn, trước khi viết Gatsby?
“Bạn nào biết,
làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn
làm phiền
tôi lắm lắm…”.
Nhưng
đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả,
Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho
nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn
Hồng Mao,
có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có
tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine,
như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một
câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
"Tôi
mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi,
chứ
không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha
nó”.
[I
like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not
when it
usepts or exceeds it].
Fowles
viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh
Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc
giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm
hiểu nó.
Đúng
là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm
ngưỡng, nhưng
nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó
ra, là một
việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như
thế, là để
thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ!
Tuy
nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn“Anh
Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản
văn tiếng Pháp,
của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986.
*
Le
Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn.
Frédéric
Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”,
“de” là từ tiếng Latinh “siderere”:
ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước
một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ
tôi với”,
nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi
không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như
tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je
cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu].
Ở
miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch
[Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn
này lắm.
Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều,
lại
chính là…. Hà Nội! Người tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như
tôi hiểu
được, qua lời kể của bà xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện
viễn liên,
sau khi Gấu tôi được tin anh mất, và xin được số điện thoại của gia
đình. Gia
đình không còn ở con hẻm đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6
nữa, mà
rời về Phú Nhuận. Cô con gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.
Chị
cho biết, thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm,
chứ
không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê
thơ, và
rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm
tờ Tập
San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến
mất cũng tại một
quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện
gục xuống,
giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh,
thì chắc
không sao. Họ cuống lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách
nhiệm, hối
chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh
Hiến có một
bài thơ về Hà Nội.
Tôi
hỏi: Anh Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi
bài thơ, không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì
bài thơ
cũng chỉ ở trong đầu anh Hiến…
Chuyện
như thế này:
Vào
những ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh
cứ lẩm
nhẩm ở trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám
bạn bè mới
quen, anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi
xong chưa,
anh nói chưa xong, chưa được…
Rồi
anh mất, và bài thơ đi luôn cùng với anh.
Lạ
một điều hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là
hay đó, chẳng
ai nhớ, dù chỉ một từ, một hình ảnh…
Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những
ngày đầu
hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập
San Văn Chương.
Cũng
là những ngày hai đứa luôn nói về Thơ,
Và,
lẽ tất nhiên, về Huế.
Và
Hà Nội.
*
Frédéric
Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ
tình
thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một
chiều (coup
de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy!
Yêu thì đẹp,
nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như
vậy, một
người đau khổ, và một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ,
nghĩa là kẻ
đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực.
Và
như tất cả những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi
một điều
thật là ác nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa
Lạ của
Camus, Ông Hoàng Nhỏ của
Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond
Radiguet,
20 tuổi… Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng
Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín năm 1914.
Fowles
đọc Anh Môn hồi còn trẻ, và
sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay
của
riêng mình, Magus, dưới bùa
chú của Anh Môn [“ảnh hưởng
rất nhiều bởi Anh Môn”:
very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên].
Hơn thế
nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác
giả của
nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình
gần gụi
với Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Cũng
là thường tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của
một cuốn
sách mà bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn
cay đắng
khắc nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời
với mối
tình đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa
chú, bởi
vì, trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ
bạn đã từng
say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ
sao…
Con
gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn
chương
mà tới tuổi đầu đời, khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của
sự vật:
thời đại hoàng kim của nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans
littérature].
Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ
ra, chính
là một trong những phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái
nhìn
chó đái cũng cười, vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một
dòng nước
nong nóng, hồng hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng
mình đã ra
khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi
qua đi và
không hề trở lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là
cái tuổi
mà chúng ta biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ
mộng, rằng
nước mắt là bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần
tới nó”
như cô viết trong truyện ngắn Những
Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn gọn: đột
nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn
nằm ở
ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó […
that the
satisfaction of the desire is also the death of the desire].
Em
cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!
Như
bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như
Hà Nội chẳng bao giờ tới được…
Merde!
Hữu Thể và Hư Vô
Phong
thần bảng
N# 1: L'ÉTRANGER d'Albert Camus (1942)
Le n # 1 de ce
classement des
50 livres du siècle, choisis par le vote de 6.000 Français, n'est pas
moi mais
je m'en fous, même pas vexé, je serai dans le «Premier Invenntaire» du
XX le
siècle, non? Non plus? ?
Il
faut souligner que notre
grand vainqueur rassurera les paresseux : un roman très court (123
pages en
gros caractères). Pas besoin de se fatiguer : on peut donc écrire un
chef-d'œuvre sans noircir des millliers de pages comme Proust.
Chef-d'œuvre
que
nous pouvons lire en une demi-heure montre en main. Autre bonne
nouvelle : le
n# 1 de notre liste est un premier roman. Il s'agit donc d'un premier
roman
premier. Enfin, mauvaise nouvelle pour les xénophobes : le roman
préféré des
Français s'intitule L'Etranger.
Il
nous narre l'histoire de
Meursault, un type décalé qui se fout de tout : sa mère meurt - il s'en
fiche;
il tue un Arabe sur une plage algérienne - ça lui est égal; on le
condamne à
mort - il ne se défend même pas. La célèbre première phrase du livre le
montre
bien : «Aujourd'hui maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas. » Le gars ne
sait même pas quel
jour sa mère est morte! On ne se rend pas toujours compte d'une chose :
tous
les losers magnifiques, les meurtriers paumés, les anti-héros désabusés
de la
littérature contemporaine sont des héritiers de Meursault. Ce sont des
Sisyphe
heureux, des révoltés pas dupes, des nihilistes optimistes, des naïfs
blasés :
bref, des paradoxes ambulants qui contiinuent de respirer malgré
l'inutilité de
tout.
C'est
que, pour Albert Camus
(1913-1960), la vie est absurde. Pourquoi tout ça? A quoi bon? Pourquoi
cette
chronique inutile? N'avez-vous rien de mieux à faire que de lire ce
livre? Tout
est vanité en ce bas monde (Camus, c'est l'Ecclésiaste chez les
pieds-noirs).
Cette lucidité taciturne n'a pas empêché Camus d'accepter le Prix Nobel
de
Littérature en 1957 (à 44 ans, ce qui faisait de lui le plus jeune
lauréat
après Kipling). Pourquoi? Parce qu'il a résumé son existentialisme en
une
devise simple : «La vie est d'autant mieux vécue qu'elle n'a pas de
sens. »
Rien ne rime à rien - et alors? Et si c'était justement cela, «le
bonheur
inévitable»? Contrairement au refus snob de Sartre, 7 ans plus tard,
qui
confère de l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le Nobel
précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Même
la mort de Camus sera
absurd.
Bien
que tuberculeux, ce play-boy,
sosie d'Humphrey Bogart, fut assassiné à 47 ans par un platane en
bordure de la Nationale 6 entre Villleblevin et Villeneuve-la-Guyard,
avec la complicité de Michel
Gallimard et d'une Facel Vega décapotable.
La seule chose qui n'est pas
absurde, c'est le style que Camus a inventé : des phrases courtes (« sujet, verbe, commplément, point », écrivit
Malraux dans sa note de lecture à l’éditeur), une écriture sèche,
neutre, au
passé composé, qui a fortement influencé tous les auteurs de la seconde
moitié
du siècle, Nouveau roman inclus. Ce qui n'interdit pas les Images
fortes - par
exemple, pour décrire les larmes et la sueur sur le visage de Perez :
«Elles
s'étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis d'eau sur ce visage
détruit.
» Même si on l'a un peu trop étuudié à l'école, il faut relire
L'Etranger, dont
le désespoir ensoleillé, reste, comme dit la publicité pour la Suze,
«souvent
imité, jamais égalé ». L'humanisme gentille d'Albert Camus peut parfois
lasser,
mais pas son écriture tranchante.
Au moment de conclure ce
dernier inventaire avant liquidation, alors que la fin du monde
approche
tranquillement et que l'homme organise sa propre disparition en
souriant, n'y
a-t-il pas une légère ironie à voir Camus s'emparer de la première
place (donc la
dernière du compte à rebours), lui qui nous a expliqué que le secret du
bonheur
consistait à s'accommoder de toutes les catastrophes?
Những cuốn sách được đưa
lên
bảng phong thần cuối cùng, trước khi quăng vào lửa.
Dernier inventaire avant
liquidation
Nhà xuất bản Grasset 2001
Năm muơi cuốn sách của thế
kỷ, do bạn chọn, nhưng Frédéric Beigbeder: làm công việc của Thánh Thán.
Đứng đầu bảng là Kẻ Xa
lạ của Albert Camus.
Cái ngôi vị số dzách, năm bơ
oăn, của Bảng Phong Thần Cuối Cùng
gồm 50 cuốn, thuộc về Kẻ Xa Lạ của ông Tây thuộc địa
Albert Camus, và là do 6000 độc giả Tây chọn. Tuy
không được hân hạnh đó, nhưng tôi đếch cần. Cũng chắng vếc xê vếc
xiếc gì
hết trơn hết trọi. Biết đâu nhờ vậy, tôi sẽ có tên trong Bảng Phong
Thần Đầu
Tiên của thế kỷ 21. Tại sao không?
Phải nhấn mạnh một điều là kẻ
chiến thắng vĩ đại này rất được lòng phái... nữ - ấy chết xin lỗi - mấy
tướng
đại lãn, hay nói theo người miền bắc, lười chảy thây ra: đây là một
cuốn tiểu
thuyết rất ngắn, 123 trang, chữ bự tổ trảng... Đâu cần phải bôi đen
hàng ngàn
trang giấy mới đẻ ra được một đại tác phẩm, như Proust...
«La vie est d'autant
mieux vécue qu'elle n'a pas de sens. »: Đời đáng sống, và nếu nó đếch
có một ý nghĩa nào, thì lại càng đáng sống!
Contrairement au
refus snob de Sartre, 7 ans plus tard, qui
confère de l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le Nobel
précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Trái hẳn cái trò xì
tin dởm của Sartre, 7 năm sau đó, Camus chấp nhận Nobel, vì ông đếch
cần. Người ta có thể ị vào mặt cả vũ trụ, có Đảng ở trong đó, thì hà cớ
gì từ chối Nobel?
Hay là tự tử liền tù tì, bởi vì đó là vấn đề triết học nghiêm túc.
Đây là muốn nhắc tới câu của Camus: Suy nghĩ, cuộc đời đáng sống hay
không đáng sống, là trả lời câu hỏi nghiêm túc của triết học.
Phi lý của Camus ở
đâu mà ra?
Tôi đọc Camus, đâu
đó trước
khi đọc Dos và Borges, vào lúc 18 tuổi, dưới ảnh hưởng của cha tôi, một
nhà kiến
trúc sư về xây cất. Vào thập niên 1950, nhà xb Gallimard cho Camus ra
lò hết cuốn
này tới cuốn tới, cha tôi cho mua chúng đều đặn, và được chuyển tới Istanbul, nếu ông không ở Paris. Còn ở đó thì ông
tự mình đi mua, lẽ tất
nhiên! Ông đọc chúng một cách tới nơi tới chốn, và bèn lèm bèm về
chúng, với thằng
con. Mặc dù đôi lúc hứng lên, ông lèm bèm về cái gọi là “triết học của
sự phi ní”
[ấy chết xin lỗi, phi lý], bằng những từ ngữ mà tôi chẳng làm sao hiểu
nổi, chỉ
đến mãi sau này, thì tôi mới ngộ ra rằng thì là tại sao ông lèm bèm về
Camus, về
phi lý: Cái triết học phi lý đó đến với chúng ta không phải là từ những
thành
phố lớn của Tây Phương, cũng không phải từ những nội thất của những đền
đài tưởng
niệm hay những căn nhà của họ, nhưng mà từ một thế giới bên lề, có tí
ti hiện đại,
có tí ti Hồi giáo, có tí ti Địa Trung Hải, giống như thế giới của chúng
tôi.
Cái
khung cảnh mà Camus đặt để
ở trong đó, khi viết Kẻ Xa Lạ, Dịch Hạch, và nhiều truyện ngắn của ông
là khung
cảnh của thời thơ ấu của chính ông, và tình yêu của ông, những miêu tả
tỉ mỉ những
con phố, những khu vườn ngập ngụa ánh mặt trời, chúng thuộc về không
Đông phương
mà cũng chẳng Tây phương.
Ngoài phát giác về
phi lý ở nơi
Camus, cha tôi còn sững sờ vì một Camus huyền thoại văn học, và càng
sững sờ hơn khi nghe tin ông chết vì tai nạn xe hơi, và đành coi đây là
‘phi
lý’.
Như
mọi người, cha tôi nhìn
ra hào quang của tuổi trẻ ở nơi văn xuôi của Camus. Tôi cũng cảm thấy
điều này, mặc dù bây giờ câu văn phản ảnh nhiều về thời đại, và cái
nhìn ra
thế giới bên ngoài của tác giả, so với trước đó. Khi tôi đọc tác phẩm
của ông,
có vẻ như đối với tôi, Âu Châu ở trong những cuốn sách của Camus vẫn là
một nơi
chốn trẻ, và mọi chuyện vẫn có thể xẩy ra. Như thể những nền văn
hóa của nó chưa rạn nứt, như thể nhìn ngắm thế giới vật chất bạn vẫn có
thể lọc
ra yếu tính của nó. Có thể điều này phản ảnh không khí lạc quan thời
hậu chiến,
khi nước Pháp chiến thắng tái khẳng định vai trò trung tâm của nó trong
văn hóa
thế giới và đặc biệt là trong văn chương. Đối với giới trí thức từ các
phần khác
trên thế giới, nước Pháp hậu chiến là một lý tưởng bất khả, an
impossible
ideal, không hẳn chỉ vì văn chương, mà còn do lịch sử của nó. Bây giờ,
chúng ta
nhìn ra thật rõ ràng, chính là tính ưu việt về văn hóa của nước Pháp đã
đem đến
cho chủ nghĩa hiện sinh và triết học của sự phi lý một thế giá bảnh bao
như vậy
ở trong nền văn hóa văn học, the literary culture, của thập niên 1950,
không chỉ
ở Âu Châu mà còn ở Mỹ, và những xứ sở không phải Tây phương.
Chính là từ một thứ
lạc quan
thời trẻ tuổi [của bất cứ ai trong chúng ta], đã khiến Camus tạo ra cú
làm thịt
anh chàng Ả Rập, và coi vụ “giết người không suy tư” này, the
thoughtless
murder, là một vấn đề mang tính triết học hơn là thực dân thuộc địa. Và
khi một nhà văn sáng láng
với một tấm bằng về triết học nói về một vị truyền giáo tức giận, hay
một nghệ
sĩ vật lộn với danh vọng, hay một người què leo lên một chiếc xe đạp,
hay một
người đàn ông đi ra bãi biển với người yêu, từ những tình huống đó
Camus chiết
ra những suy tư siêu hình sáng chói, mang tính giả dụ, đề xuất. Như một
nhà luyện
kim, ông biến đổi những chi tiết trần tục, những mảnh vụn của đời sống,
chuyển
hoá chúng vào một bài tản văn siêu hình. Nằm bên dưới nó, lẽ dĩ nhiên,
là cả một
truyền thống, cả một lịch sử dài của tiểu thuyết triết học của Pháp, mà
Camus,
cũng chẳng kém gì Diderot, thí dụ, đều thuộc về nó. Chẳng tỏ ra một
chút cố gắng
khi quyện mình vào truyền thống, đó là tài năng riêng của Camus. Và
điều này là
nhờ ở sự cực kỳ thông minh của ông, thêm một chút thông thái, một giọng
nói quyền
uy, có thể nói như vậy - với những câu văn ngắn giống như của
Hemingway, và một
cách tự sự mang tính hiện thực. Mặc dù những truyện ngắn của ông thuộc
vào truyền
thống truyện ngắn triết học trong có Poe và Borges, nhưng của ông, do
mầu sắc,
do sự sống động, do không khí truyện, khiến có thể coi ông là một tiểu
thuyết gia miêu tả, Camus, the descriptive
novelist.
Hai tuyệt chiêu của Camus, tạo
khoảng cách giữa ông và đề tài, và giọng kể thầm thì. Như thể chính ông
cũng không
làm sao quyết định được, có nên đẩy độc giả lậm sâu vào câu chuyện, và
sau cùng
đành đem con bỏ chợ, nghĩa là bỏ mặc chúng ta lơ lửng giữa những âu lo,
thắc mắc
siêu hình của tác giả, và bản văn, chính nó. Đây có thể là sự suy tưởng
về những
vấn đề nhức nhối thương đau mà Camus gặp phải trong những năm cuối đời.
Chúng
ta có thể nhận ra điều này, ở đoạn mở ra Người Câm, khi Camus tự ý
thức về tuổi già. Hay
trong một truyện khác, Nghệ sĩ làm
việc, The Artist at Work, chúng ta có thể cảm
nhận vào những ngày tận cùng của ông, sống căng thẳng, và gánh nặng
vinh
quang đè lên ông mới khủng khiếp làm sao.
Nhưng
cú ‘bức tử’ Camus, chính
là Cuộc Chiến Algérie. Là một anh Tây mũi lõ ở thuộc địa, [an Algerian
Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu của ông dành cho
thế giới Địa
Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước Pháp. Một khi ông nhìn ra
sự giận
dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và cuộc nổi dậy hung bạo từ đó mà ra,
ông không
thể chọn thái độ chống đối nhà nước của Sartre, bởi vì những bè bạn của
ông bị
giết bởi những người Ả rập - những tên "khủng bố", như báo chí Pháp gọi
– trong cuộc chiến giành độc lập. Ông đành chọn thái độ im lặng. Trong
bài ai điếu thật
cảm động về
người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã khai triển những chiều
sâu
nhức nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng đầy cao ngạo, đầy
phẩm giá của
mình.
Bị ép buộc phải chọn bên,
Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục tâm lý’, trong Người Khách,
The Guest. Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả
chính trị, không
như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra
trận mùa
này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó nào, mà
chúng ta bắt
buộc phải chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về
điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
*
V/v giọng văn thầm thì:
Have U ever
seen the rain?
Et pourtant le miracle se
poursuivait. Le
monde durait, pudique, ironique, et discret (comme certaines formes
douces et
retenues de l’amitié des femmes). Un équilibre se poursuivait, coloré
pourtant
par toute l’appréhension de sa propre fin. Là était tout mon amour de
vivre:
une passion silencieuse pour tout ce qui allait peut-être m’échapper,
une
amertume sous une flamme. ...
Đó, là tất cả tình yêu sống của tôi: Một đam mê
lặng lẽ đối với tất cả những gì có thể vượt khỏi tầm tay tôi, một nỗi
đắng cay
dưới một ngọn lửa. Albert Camus: Amour
de vivre. L’envers et l’endroit
[Note: To U, CM. NQT]
Nếu
có tí mắc míu giữa NNT và
Camus, có thể, là qua truyện ngắn Người
Khách. Câu chuyện một anh giáo làng tại
một vùng xôi đậu, ngày Quốc Gia, đêm VC. Tay
giáo làng này một bữa đang dậy học thì được một ông cảnh sát Ngụy tới
nhờ giữ
giùm một anh VC nằm vùng, trong khi ông ta lên tỉnh xin thêm chi viện,
để giải
giao về tỉnh. Khi ông cảnh sát đi rồi, tay giáo làng bèn cởi trói của
anh VC nằm
vùng, giúi cho 10 ngày luơng thực [đám sĩ quan Ngụy sau đi trình diện
cải tạo,
phải mang theo 10 ngày lương thực, là do chuyện này mà ra], và chỉ
hướng trốn vô
rừng, không ngờ đúng hướng đó, có Ngụy quân đang nằm sẵn!
Và khi anh giáo làng
nhìn lại tấm bảng đen, thì đã có hàng chữ phấn trắng: Mi bán chiến sĩ
giải phóng
cho Ngụy, mi phải thường mạng!
Kẻ Xa Lạ
Tông tông Pháp hết lời nâng bi Camus
|
|