Ghi
|
Văn chương sám hối?
Trong bài trước (chân dung Tố
Hữu và Nguyễn Tuân), người viết có đưa ra đề nghị: coi Chân Dung Tự Họa
của họ
Trần như điểm qui chiếu của tác phẩm, và chi tiết - "Giang viết sai
thành
Dang, [hay Gian?], rồi sau đó được nhà báo sửa (Dang) thành Đăng (Trần
Đăng Khoa) -
là
"ẩn dụ" (metaphor) chuyên chở những chân dung và đối thoại.
Xin ghi lại Chân Dung Tự Họa,
để độc giả tiện bề theo dõi:
"Trần Đăng Khoa sinh
ngày 26.4.1958, là con thứ ba trong gia đình bần nông ở làng Điền Trì,
xã Quốc
Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, bên vùng (hay bên bờ?) sông Kinh
Thày.
Thuở bé, y từng mơ ước trở thành kỹ sư nông nghiệp và suốt đời làm thơ
về làng
quê, cảnh quê, những vui buồn của người dân quê ở nơi xóm mạc. Nhưng
rồi, cũng
như nhiều thợ cày ở làng, y lên đường nhập ngũ vào những tháng cuối
cùng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trở thành nhà thơ khoác áo lính.
Đối với Trần Đăng Khoa, thơ
hay là thơ giản dị, xúc động, và ám ảnh. Suốt đời, y luôn có ý thức
vươn tới
loại thơ đó. Nhưng để làm được điều ấy, một phần do y, một phần khác
còn do...
ông giời! Nhưng ông giời ở đâu, mặt mũi và tính khí ông ta như thế nào
thì suốt
đời, y cũng không sao hiểu được.
Bài thơ đầu tiên của Trần
Đăng Khoa được in trên báo Văn nghệ vào năm 1966. Khi đó, y tám tuổi,
đang học
ở kỳ hai lớp Một trường làng. Năm 1968, tròn 10 tuổi, tập thơ Góc sân
và khoảng
trời của y ra đời. Lúc ấy, người làm thơ còn ít, trẻ con làm thơ lại
càng ít,
nên nghiễm nhiên, y thành của hiếm, thành đặc sản. Nhiều người tò mò,
lặn lội
hàng trăm cây số bom đạn, tìm đến nhà y, chỉ cốt để xem... xem y như
xem... ma
quỉ hiện hình. Có người còn bắt y xòe tay nom đường chỉ, vạch tóc ngó
xoáy đầu,
rồi lặng lẽ ra đi với gương mặt rất là bí hiểm.
Bây giờ thì y đã già và dứt
khoát không phải kẻ đắc đạo, vậy mà y vẫn phải còng lưng, ỳ ạch vác cây
thánh
giá của lứa tuổi trẻ con.
Những năm gần đây, ngoài làm
thơ, Trần Đăng Khoa còn viết văn, viết báo, viết chân dung và đối
thoại, bình
luận văn chương. Ngoài những trang viết mà ở đấy thường là y dồn hết
tâm lực,
còn ngoài đời, y là tay nhạt nhẽo và tầm phào.
Y chẳng đam mê gì, và nói
chung, y là một gã vô tích sự."
Người viết xin đưa ra một vài
gợi ý trước khi cùng độc giả đọc (ngắm) những chân dung qua nét vẽ của
họ Trần:
Những ý niệm (đao phủ) ngồi
thiền (Bùi Minh Quốc), đắc đạo, vác thánh giá... hiện nay rất phổ
thông, trong
giới viết lách ở trong nước. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã từng viết về
một cô
bạn hiện ở nước ngoài, gửi thuốc men cho ông, kèm lời hỏi thăm: vẫn còn
vác
thánh giá? Ông cũng coi Văn Cao, một nghệ sĩ lớn đã tự chọn cho mình
một bi
kịch (thánh giá?) lớn.
Theo tôi, đây là một phản ứng
ngược, trước cuộc đời, trước thất bại của chiến thắng Miền Nam.
Cũng có thể giải thích theo
tinh thần Phật giáo: cứ buông dao xuống, là (có thể) trở thành Phật!
Trong Chữ và Vật, M. Foucault
coi Don Quichotte "lang thang phiêu lãng" (erre à l'aventure), giữa
chữ viết và sự vật, một khi mà những "tương tự" (analogies) chỉ đem
lại thất vọng: "Trong phần hai cuốn tiểu thuyết, Don Quichotte gặp
những
nhân vật đã đọc phần đầu, họ nhận ra anh, một con người thực, như là
nhân vật
của một cuốn tiểu thuyết. Bản văn của Cevantes tự gập đôi... Don
Quichotte (bắt
buộc) phải trung thành với cuốn sách: anh ta đã thực sự trở thành cuốn
sách
đó... Nhưng cuốn sách, Don Quichotte đâu có đọc, làm sao đọc được, bởi
vì nó là
xương là thịt của chính anh...".
Nhìn theo cách thế đó, chúng
ta "có thể" coi Trần Đăng Khoa là một... Don Quichotte, trong xã hội
hậu-chiến tranh ở Việt Nam.
Hãy tưởng tượng phần đầu cuốn
sách: cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước. Phần hai gập lại trên
chính nó,
hay nói như Foucault: anh ta (Don Quichotte) có nhiệm vụ phải chống đỡ
cho cuốn
sách, về những lỗi lầm, thêm thắt những chi tiết còn thiếu, bị bỏ đi
(thí dụ
như chi tiết về Võ Nguyên Giáp trong thơ Tố Hữu). Anh ta có nhiệm vụ
phải giữ
gìn (maintenir) sự thực...
Nhưng cũng như Don Quichotte,
số phận của họ Trần sẽ "lang thang phiêu lãng" giữa những chữ (phịa
như thật), và sự vật (sự thực), giữa sự thực (chẳng bao giờ có), và
"thất
bại của sự thực".
Cũng có thể coi phần hai của
cuốn sách: họ Trần đi gặp những người đã từng tới... xem y như xem...
ma quỉ
hiện hình, và bây giờ, tới lượt anh xem họ như... những ông Phật (Tố
Hữu),
những kẻ vác thánh giá, những người tự chọn cho mình bi kịch lớn...
Trong bài viết về
trường hợp bài thơ Hoan hô
Chiến Thắng Điện Biên, của Tố Hữu, người viết có cho rằng, phải nhìn
thấy, đằng
sau những chi tiết phịa, có một giấc mơ của cả một miền đất... và giấc
mơ đó đã
không trở thành hiện thực. (1)
(1) "Balzac mô
tả cái nón, là
bởi vì có người đang đội nó". Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc
đỏ
rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích
được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng
ta đều biết, giấc mơ
đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng giấu kín đằng sau
nụ cười
hiền như Phật của Tố Hữu.
Đúng
ra, giấc mơ đã trở thành
hiện thực. Một hiện thực khủng khiếp, ghê rợn, mà những người nào đã
sống qua
thời kỳ đấu tố ở ngoài Bắc đều còn nhớ "như in" ở trước mắt. Loa dậy
đất, đuốc đỏ làng, tiếng người la hét ("Lôi cổ nó ra đây!"), tiếng
chân người...
"Balzac mô tả một cái
nón, là bởi vì có một người đang đội nó" (G. Steiner). Trần Dần "chỉ
thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ", là bởi vì có "một" đứa trẻ đang bị
cả một miền đất bỏ đói, có "người" thương hại muốn cho cháu ăn, nhưng
chỉ dám đứng nhìn...
Những chi tiết đó, còn đầy
rẫy trong những vần thơ, những bài văn của thời kỳ này.
Câu hỏi: Liệu có
thể coi sự kiện, Tố Hữu
xác nhận bài thơ là phịa, là để xin lỗi, để sám hối?...
Liệu có thể coi Chân Dung
& Đối Thoại như "chim báo bão" về một dòng văn chương: sám hối?
Văn chương của sự thực, từ những lời dối trá?
Có thể Trần Đăng Khoa (được
trang bị đủ các quan điểm nghệ thuật của Đảng, như trong Lời nói đầu)
không
nhìn ra phản ứng ngược như trên (hiện tượng ăn khách, đi vào cuộc sống
từng
ngày của cuốn sách). Đối với ông, khi viết nó, vẫn nghĩ mình đang vác
cây thánh
giá thần đồng hồi nào, như "một lời nguyền rủa", và chỉ muốn hất bỏ
nó đi, để làm một gã "vô tích sự", như ông hằng mong mỏi, trong Chân
Dung Tự Họa.
Tôi nghi, Trần Đăng Khoa đã được gợi hứng
bởi Xuân Sách, và bởi vì ông là nhà thơ, lại là thần đồng, cho nên, nếu
Xuân
Sách đã chấm phá chân dung những thế gia vọng tộc (élites), của một chế
độ bằng
một vài nét "nghịch", ta thử vẽ, theo kiểu "thuận" - nghĩa
là, dưới ánh sáng của Đảng (hay Dang, hay Giang?). Vô hình chung, ông
rớt ngay
vào nét họa của Xuân Sách:
Khi khôn lớn lại
hồn nhiên đi giữa
"Biển một bên và
em một bên"
So sánh Trần Đăng Khoa với
một nhân vật tuyệt
vời, xả thân vì đại nghĩa, chiến đấu với cối xay gió, vì tưởng là khổng
lồ, là
quái vật... thật nhảm. Nhưng hai nhân vật đều được trời cho
"tính
hồn nhiên", đúng như Xuân Sách đã nhận ra:
Chú dế góc sân hồn nhiên ca
hát
Hát thành thơ như nước triều
lên
Đấy là phần đầu của một cuộc
đời. Của một miền
đất. Của một hy vọng. Của một giấc mơ. Phần sau gập lại trên chính nó:
khi khôn
lớn lại hồn nhiên... đi giữa.
Một cách
nào đó, Chân Dung và Đối Thoại,
là một phiên bản của Chân Dung Nhà Văn, của Xuân Sách. Bạn không thể
đọc một,
bỏ một. Chúng bổ túc cho nhau một cách thật tài tình, như môn Lưỡng
Nghi kiếm
pháp, một âm, một dương của một môn phái võ học trong Kim Dung. Cái độc
đẻ ra
thiên tài văn chương, là ở Xuân Sách. Cái độc đẻ ra thảm họa, là ở Trần
Đăng
Khoa, bởi vì đi giữa, nghĩa là chẳng thuộc về bên nào: thái độ khôn
ngoan này
không chỉ một mình ông là người lựa chọn. Ngay Nguyễn Huy Thiệp mà còn
tự khoe:
tôi khôn hơn Dương Thu Hương.
Vả chăng "đi giữa"
thực sự chỉ là "mặt nổi" của hiện tượng Trần Đăng Khoa qua cuốn Chân
Dung và Đối Thoại.
Trong những số tới, chúng ta
sẽ đi tìm "mặt chìm" của nó.
|
|