Sương rất độc tẩm vào người nỗi
chết
Đọc Chân Dung và Đối thoại
của Trần Đăng Khoa
Có những bút danh do
tình cờ
mà thành, lại có khi do sự viết sai, mà nên. Thí dụ như Trần Đăng Khoa
chẳng
hạn. Vốn là Trần Giang Khoa (em gái của Khoa tên Giang) nhưng vì mới đi
học nên
anh viết (trật) là Trần Dang Khoa, đến khi (có bài) đăng báo, tòa soạn
sửa lại
thành Trần Đăng Khoa.
(Trích
Chuyện vãn về bút
danh, tác giả Ngô Vĩnh Bình, báo Sài Gòn Giải Phóng, qua báo Nhân Dân
trên
Internet).
*
Đây
là một cuốn sách đã và
đang gây chấn động ở trong nước. Nghe kể lại, đã in tới lần thứ tám
hoặc chín,
được bán kèm với gần như tất cả những vật dụng cần thiết cho đời sống
hàng ngày
của người dân trong nước: tờ giấy số, nhật báo, hay gói mì ăn liền...
Hiện
tượng, một tác phẩm "văn học" đi vào cuộc sống mỗi ngày, là một
chuyện khó hiểu. Đừng coi đây như hiện tượng best-sellers ở Tây-phương.
Có lẽ
chỉ có thể giải thích bằng lời phẩm bình của nữ thi sĩ Nga, Akhmatova:
Chỉ
người nào có sống ở Nga, và nghe radio (la-dô, đài) mỗi ngày, mới hiểu
chủ
nghĩa Cộng-sản là gì. (Only someone who lives in Russia and listens to
the
radio every day can understand what communism is, trích dẫn từ Chuyện
trò với
Joseph Brodsky, của Solomon Volkov, nhà xb The Free Press, 1998).
Cuốn
sách cũng đang gây "chấn động"
ở hải ngoại. Tờ này, tờ nọ chọn đăng lại. Người viết, khi nghe nói về
nó, liên
hệ tới chuyện "đói thông tin" ở trong nước, nghĩ: chắc nó cũng giống
hiện tượng Đêm Giữa Ban Ngày đối với độc giả hải ngoại. Người ta đọc
trước tiên
vì tò mò, khoan nói tới mong ước, có trong tay "Một Ngày Trong Đời Ivan
Denisovich" (Solzhenitsyn).
Mới
đây được đọc, và thấy có
phần đúng. Nhưng không giản dị như vậy.
Riêng
phần dữ kiện, nó hé cho thấy không chỉ
đằng sau một chế độ, mà còn đằng sau một con người, nhiều con người.
Nhiều cõi
nhân sinh, quan điểm nghệ thuật, có thể đồng ý, hoặc phản bác, hoặc dựa
vào đó,
để công kích, để "chống Cộng"....
Bài
quan trọng nhất, theo
tôi, là chân dung tự họa của Trần Đăng Khoa. Đây là điểm qui chiếu của
tác
phẩm. Cũng có thể coi chi tiết "viết sai tên, Giang thành Dang" ở
trên như là một ẩn dụ làm nền cho cái đọc Chân Dung và Đối thoại... của
chúng
ta.
Bởi
vì tất cả những chân dung
sau đó, đều là những "phó bản" của tự họa.
Người
viết có "tham
vọng" đọc từng bài, rồi "tản mạn" về từng bài. Như một cách
"giao lưu văn hóa."
Trước
tiên là bài viết, về Tố
Hữu, và nhân đó, về Nguyễn Tuân.
Một
chuyên gia về biếm văn,
sau khi trích đoạn viết về Tố Hữu, đã cho rằng: những dòng thơ
"phịa", về chiến thắng Điện Biên (chỉ ngồi nhà nghe hóng, rồi viết),
vậy mà đã xúi bao nhiêu con người lao vào chỗ chết.
Nhận
xét này theo tôi đã phần
nào nói lên cái được, cái mất của tác phẩm: chính Trần Đăng Khoa, khi
phê bình
Nguyễn Tuân cũng mắc đúng một khuyết điểm như vậy.
Những
nhận xét văn học của
Trần Đăng Khoa, phần lớn đã lấy thước đo, là đời sống, là cái "hiện
thực". Trong khi nghệ thuật, nó "đếch cần" cuộc đời. "Nói
theo" nhà thơ Nga Joseph Brodsky: nghệ thuật không bắt chước, nhưng nó
"làm độc" đời sống. (1)
Thơ
rất độc, tẩm vào người
nỗi chết (2)
Trần
Đăng Khoa hỏi, về xuất
xứ bài Hoan hô Chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu cho biết:
"Chịu
không thể nhớ được
(...) Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng
chờ tin
tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc chạy qua bên Bộ Tổng, Quân Uỷ Trung
Ương, chỗ
anh Văn (Võ Nguyên Giáp) hỏi xem có đánh nhau ở đâu để viết bài tuyên
truyền
(...)
-Vậy
tin toàn thắng đến với
anh vào lúc nào?
-Lúc
ấy khoảng 5 rưỡi hay 6
giờ chiều ngày 7-5. Rừng nhá nhem tối mới có điện từ anh Trường Chinh
xuống.
Mình mừng quá. Cái chuyện 'Hỏa tốc, hỏa tốc - Ngựa bay lên dốc' ấy là
có thật
(...) chứ làm gì có 'Đuốc chạy sáng rừng', với 'Làng bản đỏ đèn đỏ lửa'
(...)
Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng tối mù mù (...) Vậy thì loa
với ai,
thế mà vẫn loa kêu từng cửa (...) Làng bản đỏ đèn đỏ lửa (...). Này xem
ra
không thể tin cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn chuyện phịa. Chỉ có
điều
mình phịa như thật, nên người ta tha cho.
Phịa
như thật (thật nào?).
Tại sao lại tha cho ?
Nhưng
chi tiết liền sau đó,
mới thật "lạ":
Rồi
Tố Hữu lại cười. Nụ cười
thật hiền hậu. Trông ông lúc này có dáng vẻ một ông Phật.
Có
thể Trần Đăng Khoa đã quên
mất mấy chữ "phịa như thật", nên đã mượn "ma", để
"chê" Nguyễn Tuân.
Bàn
về văn Nguyễn Tuân
"Ma" nói:
"Quả
ông cụ viết khá
nhiều về món ăn... Nhưng đưa các món ăn lên thành những áng văn chương,
thành
văn hóa ẩm thực, trước tiên phải kể đến Vũ Bằng với Thương Nhớ Mười
Hai, Miếng
Ngon Hà Nội, Món Lạ Miền Nam.... những kiệt tác về ăn uống... nó là hồn
vía của
cả một vùng đất. Văn chương của cụ Nguyễn chưa đạt đến độ ấy. Đôi khi
ngay
trong chuyện ăn uống này, ông cụ cũng lại đùa."
Viết
về hai nhà văn tiền bối
như vậy, là không đúng, bởi vì người được khen cũng không cảm thấy hãnh
diện.
Chưa kể chuyện, vì cũng là món ăn, cho nên có người ưa món ăn "Nguyễn
Tuân", có người ưa món ăn "Vũ Bằng". Có người ưa cả hai, chẳng
chịu bỏ món nào! Tuy "tham ăn", người viết có thể đưa những lý do, để
nói ngược lại (văn của cụ Vũ chưa đạt tới độ ấy), nhưng không dám, vì
quá vô
lễ, cảm thấy nình nếu làm vậy thì cũng giống như một trong "nhiều người
tò
mò, lặn lội hàng trăm cây số bom đạn, tìm đến nhà y, chỉ cốt xem y như
xem...
ma quỉ hiện hình. Có người còn bắt y xòe tay nom đường chỉ, vạch tóc
ngó xoáy
đầu, rồi lặng lẽ ra đi với gương mặt thật là bí hiểm" (Chân dung tự
họa).
Có
thể họ Trần sẽ nói: đây là
những việc thực, người thực, nhưng khi làm văn chương "nguyên con"
như vậy, nó lại lòi ra bản chất của người viết.
Bởi
vì nghệ thuật không bắt
chước cuộc đời. Nó tẩm độc cuộc đời. Độc ở đâu ra?
Độc
là cần thiết trong văn
chương, theo tôi. Không độc không trượng phu, mà lị! Nó làm tác phẩm
trở thành
một tác phẩm, hay một thảm họa, là tùy người viết.
Cũng
vì cố bám chặt vào
"hiện thực", cho nên họ Trần đã không thấy nét đẹp của Chém Treo
Ngành, của những ngôi sao đánh dấu con đuờng từ giếng trời về trần
trong Những
chiếc ấm đất. Phê bình Chém treo ngành, ông viết: "Đưa việc chém người
lên
thành nghệ thuật và tả đường đao, mũi đao với kẻ khoái cảm như một dạng
thưởng
thức nghệ thuật thì chỉ ở cõi người mới có nhà phê bình viết bài tán
dương, chứ
ma thì con xin vái cụ". Ở đây, họ Trần lại mâu thuẫn với chính ông khi
chê
Nguyễn Tuân không đưa việc ăn uống lên thành nghệ thuật. Nhưng ngay câu
tiếp
theo cho thấy tại sao:
"Ngay
cả kẻ bị chém là
lũ tà đạo, lũ cướp đường, tả thế cũng không ổn, huống hồ đó là quân
khởi nghĩa,
những người xả thân vì đại nghĩa cả. Nhà văn lớn ai lại làm thế."
"Balzac
mô tả cái nón,
là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn
đuốc
đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích được,
dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như
chúng ta đều biết, giấc
mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng giấu kín đằng
sau nụ
cười hiền như Phật của Tố Hữu.
--------------
Chú
thích:
(1):...
art doesn't imitate
life but infects it. (On Grief and Reason, J. Brodsky).
(2)
Mô phỏng thơ Thanh Tâm
Tuyền:
Khi
anh đi, anh đi vào sương
đen,
Sương
rất độc tẩm vào người
nỗi chết.
(3)
G. Steiner, trong bài
giới thiệu "Chủ nghĩa hiện thực trong thời đại của chúng ta", của G.
Lukacs.
Khi
anh đi anh đi vào sương đen
Sương
rất độc tẩm vào người nỗi chết
Hai
câu thơ trên, ở trong một bài thơ của TTT mà trong giới viết lách chỉ
có Gấu biết, vì là thơ không phổ biến. Bài thơ được dán ở trên tường,
nơi bàn làm việc của ông, trong phòng riêng của ông, thời gian đám
chúng tôi, bạn của ông em, thường lấy nhà bà cụ làm nơi tụ tập, tức năm
Gấu học thi Tú Tài II. Đó là hai cuối, những câu trên, Gấu quên, đại
khái, khi anh đi.. trời vào thu, thành phố khuya dài chùm áo cũ, ..
chúng ta còn một mình bơ vơ.