Ghi
|
Văn
chương và Siêu hình: Về cuốn
Linh Sơn
May 1991, Stockholm (bài đọc tại Viện
Đông Á,
Đại học Stockholm).
Cao
Hành Kiện
TQ
là một nhóm ngôn ngữ rộng lớn trên thế giới hiện nay nếu tính đến
con số
những người nói thứ ngôn ngữ này, nhưng với một người sử dụng nó, người
đó có
được bao lăm tự do. Trước hết, đây là một vấn đề chính trị, rồi tới
những sức
ép xã hội, chúng gây tự chế ở nơi nhà văn, và sau hết, đây là một vấn
đề tự
thân của chính ngôn ngữ. Nhà văn đối đầu chỉ với ngôn ngữ, trong những
gì ông
viết ra, nhưng trước tiên người đó phải đụng [deal] tới không biết bao
nhiêu là
sức ép và tìm kiếm cách để vượt qua [transcend] chúng. Nhà văn viết
bằng tiếng
TQ thường xuyên chiến đấu một cách vô vọng với những gánh nặng cực kỳ
nặng này,
bởi vậy, tới khi ông phải đương đầu với nghệ thuật ngôn ngữ, thì đã mệt
nhoài,
hết hơi. Người ta có thể nói nhà văn TQ quả là có quá nhiều điều để mà
vật lộn
với chúng.
Vào
năm 1981, tôi được một người bạn khuyến khích cho xuất bản một cuốn
sách
mỏng, về nghệ thuật ngôn ngữ, cho tầng lớp đông đảo độc giả, có tên là
Những
thám hiểm, khai phá sơ sơ về Nghệ thuật Giả tưởng Hiện đại, Preliminary
Explorations into the Art of Modern Fiction. Tôi nghĩ thật khó
xuất
bản,
nhưng cứ thử mở ra một con đường cho nó. Tôi đã từng gửi một tuyển tập
truyện
ngắn tới năm nhà xb ở TQ, và sau cùng ở Hongkong, nhưng chẳng nơi nào
in.
Lạ
làm sao, cuốn sách mỏng dính đó, chẳng mắc mớ gì đến chính trị lại
lôi kéo
thật nhiều bàn cãi, tranh luận, và nổ lớn mãi ra, về chủ nghĩa hiện đại
vs chủ
nghĩa hiện thực. Nó gây đủ vấn đề cho tôi và gây rắc rối cho rất nhiều
bạn của
tôi, và một số nhà văn lão làng tỏ ra quan tâm tới tôi như Ba Jin, Xia
Yan, Ye
Junjian, Yan Wenjing, và Dhong Dianpei. Tệ hại đến nỗi, Wang Meng,
người viết
một thư ngỏ cho tôi, trở thành mục tiêu tấn công. Thành thử có thể nói,
bàn về
nghệ thuật ngôn ngữ không dễ dàng, mà còn là quá khó khăn tại TQ.
Vào
mùa xuân 1982, một biên tập viên của một nhà xb muốn biết liệu mọi
chuyện
có khác đi chút nào, và hoàn cảnh bây giờ chắc là khá hơn, và đề nghị
tôi viết
một cuốn tiểu thuyết, tôi bằng lòng với điều kiện không được cắt bỏ bất
cứ cái
gì. Linh Sơn đã được toan tính cho ra đời là như thế. Tôi cũng
phải nói
thêm, anh ta chẳng chút ất giáp cuốn tiểu thuyết của tôi sẽ như thế
nào, giản
dị là, anh tin tôi. Sau đó, anh đưa tôi chút tiền tạm ứng lấy từ nhà
xb, khi
tôi nói, tôi tính làm một chuyến giang hồ vặt: vào lúc đó, chiến dịch
phạng tôi
đã bắt đầu được tiến hành. Và trong tình hình như vậy, chỉ nội cấu trúc
cuốn
sách không thôi, cũng khó mà in ra được, nhưng lỡ lấy tí tiền còm rồi,
tôi
tính, khi nào có dịp thì cứ đưa cho anh ta mớ bản thảo, thì cũng đặng.
Vậy là
thoát gánh nặng tâm lý.
Vào
tháng Chín, 1989, tôi hoàn tất mớ bản thảo tại Paris. Tuy nhiên sự kiện
Thiên An Môn còn nóng hổi, ngay cả chuyện gửi bản thảo cho nhà xb cũng
hơi bị
nguy hiểm không cần thiết cho họ, thế nào tôi quyết định không gửi đi.
Cái
sự viết ra được cuốn
sách, ấy là nhờ cái sự cấm trình diễn vở kịch Bus Stop, Trạm ngừng xe
buýt, mà
có được. Nếu chỉ một hài kịch về cuộc đời như vậy [this lyrical comedy
on
life], mà bị coi là một vấn đề chính trị, và bị đưa ra đấu tố trong
chiến dịch
làm trong sạch sự ô nhiễm tinh thần, thì hẳn nhiên, cuốn tiểu thuyết
này sẽ
phạm vào một tội ác nghiêm trọng. Thế là, tôi tự cởi trói cho mình, ra
khỏi xã
hội, nhân dân, đạo đức, và ngay cả cái được gọi là trách nhiệm của nhà
văn, và
tội tổ tông, và cứ thế thoải mái viết, đối mặt với chỉ một, là, tiếng
mẹ đẻ của
tôi, ngôn ngữ Trung Quốc, như nó được trường tồn cho tới bây giờ.
Theo
cái nhìn của tôi, thì trách
nhiệm độc nhất của một nhà văn là với ngôn ngữ mà người đó viết. Anh ta
có thể
tái tạo, reform, những sự sáng tạo của anh ta, his creations, nhiều
chừng nào
như anh ta muốn chừng đó, nói hoài hoài, vô tận, viết về không cái gì,
write
about nothing, và chơi đùa, play, với ngôn ngữ, nhưng anh ta phải tôn
trọng,
respect, những luật lệ nội tại của ngôn ngữ, nếu không sẽ chẳng có nghệ
thuật của
ngôn ngữ.
Thời
kỳ vận động ngôn
ngữ địa phương 4 Tháng Năm, ngôn ngữ Trung Quốc cổ xưa trải qua một
kinh nghiệm
tái sinh, rebirth, nhờ đó tăng thêm khả năng diễn tả những cảm nghĩ của
con người
hiện đại. Ở một mức độ rộng lớn, sở dĩ được như vậy, là một số nhà văn
nổi tiếng
trong lịch sử Trung Quốc hiện đại. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông, mặc dù
chính ông là
một văn gia, a stylist, sau đó, đã khiến ngôn ngữ Trung Quốc lâm vào
tình trạng
hãi hùng, trong một thời gian dài ông trị vì. Tôi tin tưởng rằng, điều
mà những
tác giả viết bằng tiếng Trung Quốc bây giờ, có thể cùng nhau làm, để
thêm thắt
vào những thành quả cá nhân và những tư tưởng, ý nghĩ của họ, là khai
triển tiềm
năng của ngôn ngữ, nhờ vậy mà nó có thể diễn đạt đầy đủ những cảm nghĩ
của dân chúng, con
người hiện đại. Đây là nhân tố căn bản, dựa trên đó mà tôi viết Linh
Sơn: tôi
muốn chứng minh, rằng còn có chỗ, còn không gian, trong ngôn ngữ, cho
sự sáng tạo
lớn lao hơn.
Tôi
nhận thấy, thứ ngôn ngữ
Trung Quốc Âu Châu hóa, không thể chịu nổi. Việc áp dụng cú pháp, hình
thái
học Tây phương vào ngôn ngữ TQ khiến không thể đọc được. Thoạt đầu là
một số bản
dịch tồi tệ, sau tới những tác phẩm văn học, và sau cùng, một số nhà lý
thuyết không có chút hiểu biết về những ngôn ngữ Tây phương bắt đầu cổ
võ việc
canh tân này, lầm lẫn coi đây là văn phong hiện đại. Những câu văn què
quặt, cách
viết không thuận lý, không văn phạm được coi như là những xu hướng mới
mẻ nhất, và được đem ra thảo luận, thêm thắt, bổ
xung. Những nhà lý thuyết như thế đó, họ hoàn toàn mù tịt sự kiện là,
trong khi
Beckett thì ngắn gọn, xúc tích, và Roland Barthes thì có tính lan man,
tản mạn,
những trò tiêu khiển về ngôn ngữ và những cuộc trình bầy, triển lãm
những bản văn
của họ thì đều được viết bằng một thứ tiếng Pháp ở dạng tinh khiết
nhất. Cái sự
mắc bệnh truyền nhiễm và cái cảnh hỗn mang trong ngôn ngữ TQ mà những vị bạo chúa ngôn ngữ nổi loạn sáng tạo
ra đó, thì chẳng nên dung nạp mà làm gì, ngay cả khi coi đây là một
giai đoạn cần
thiết không thể nào tránh được, trên con đường chiến đấu để có được tự
do diễn
đạt, tự do ăn nói. Bây giờ, ngôn ngữ TQ đang trải qua nỗi đau đớn khổ
sở này, một
hình thức mới mẻ, tuơi mát của ngôn ngữ nên ló đầu lộ diện là vừa.
Note:
Thời gian gần đây, dời nhà
mấy đợt, sách vở, báo cũ cho vô túi, vô bị, vô thùng giấy, ngổn ngang
dưới
basement, nhìn chúng, là Gấu tiên tri ra được chuỗi ngày tàn đang điểm!
Chẳng
còn thời giờ sắp xếp "Tàng Kinh Các", lâu lâu chui xuống, vớ được số
nào thú thú, ngồi đọc vài dòng, như mới đây, vớ tờ TLS viết về thế giới
văn
Tây, đúng số kỷ niệm ông thân sinh của Ông Hoàng Nhỏ, cũng là số viết
về Nobel
văn chương 2000.
‘Giải
thưởng văn chương Nobel
năm nay được sử dụng vì mục tiêu chính trị và chẳng đáng bàn tới”, Bộ
trưởng
Ngoại Giao TQ phán, khi biết giải về tay Cao Hành Kiện.
Nhân
đang giới thiệu một số
bài tiểu luận của ông, Tin Văn sẽ scan bài viết, và dịch sau.
... ten years
waiting for a bus? what kind of realism
is that? :
"10 năm rồi lại 10 năm nữa", chỉ để đợi xe buýt, hiện thực chủ nghĩa
quái gì dzậy?
Gao's reasons
for exile emphasized the artistic
over the political: on leaving China,
he remarked, "an artist who wishes to express freely would not want to
stay in this country unless he goes against his conscience".
Một
nghệ sĩ muốn tự do diễn đạt sẽ không muốn ở lại đất nước ngoại trừ
anh ta muốn đi ngược lại lương tâm của mình.
|
|