Ghi
|
Simenon
và Greene là
hai tác
giả, vào những ngày mới vào đời, Gấu đọc họ, không phải vì mục đích văn
chương,
nhưng mà chỉ để học ngoại ngữ, nhưng tuyệt vời làm sao, càng về sau, họ
trở thành
những ông thầy dậy viết văn, và hơn thế nữa, dậy cách sống ở đời.
Simenon, ít hơn,
nhưng Greene, quả là càng về già, Gấu càng thấm ông, nhất là về điều mà
ông gọi
là “human factor”, như tên một tác phẩm của ông.
TTT gọi
những tên Bắc Kỳ như ông,
như Gấu… là những đứa con hoang [ông dùng chữ 'tư sinh'] của một miền
đất. Đó cũng
là một trong những 'human factor' của đám Bắc Kít di cư 1954. Với
Greene, ông coi
đây là những trường hợp ‘split loyalities’. Trai ngay thờ chúa, gái
thờ chồng,
thành thử PXA không thể bỏ được đất Bắc, là vậy.
The Human
Factor, which
didn't even have a title, hung like a dead albatross round my neck. My
imagination seemed as dead as the bird. And yet there were some good
things in
the twenty thousand words which I had written - I liked especially the
shooting
party at C's country house. The memory of it nagged me. I couldn't
settle to any
other work, and so reluctantly and doubtfully I took the novel up
again,
telling myself that the Philby affair belonged now sufficiently to the
past.
Perhaps the hypocrisy of our relations with South Africa
nagged me on to work
too.
The Human Factor [Yếu tố
người] không có được, ngay cả một cái tít. Nó
lủng lẳng ở cổ tôi, như một con chim hải âu chết. Sự tưởng tượng của
tôi cũng chết như chim. Tuy nhiên, có vài điều đường được ở trong mớ
hai chục ngàn con chữ mà tôi đã đổ ra đó - tôi mê cái bữa tiệc săn bắn ở căn nhà đồng quê
của C. Hồi nhớ của tôi về nó làm phiền tôi. Tôi không thể làm được
chuyện khác, thế là vừa ngần ngại vừa hồ nghi, tôi lại lôi nó ra, tự
bảo mình, cái vụ Philby thì cũng xưa rồi Diễm ơi. Có lẽ, cái tính đạo
đức giả trong những liên hệ với Nam Phi cũng làm phiền và khiến tôi
không thể nhả ra.
*
"The
novelist’s
station" he [Greene] insists "is on the ambiguous borderline"; a
writer, like a double agent, “must be able to cross over, to change
sides at
the drop of a hat”.
Cái trạm sở của tiểu thuyết
gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn, thì cũng một thứ gián điệp
hai mang,
nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền lập tức khi cái nón [tai
bèo] vừa
rớt xuống'. Graham Greene
*
Loyalty breeds treachery.
Trung thành sinh ra phản bội
Peter Kemp: The Human Factor,
Introduction
*
Trung thành sinh ra phản bội.
Mấy ông nhà văn VC không thể
nào hiểu ra điều này.
Nguyễn
Khải có thể đã mơ hồ
hiểu ra, khi ông đổi trú sở, bỏ chạy Hà Nội vô Sài Gòn, và nhập ngay
vào với
cái không khí biên cương mù mờ, và viết được mấy cuốn, nhưng lại chiếu
sáng
chúng bằng ánh sáng của Đảng. Bằng sự trung thành, đời đời biết ơn Đảng!
Giá mà ông có dũng khí, chắc
là đã dám phản bội, và hiểu ra chân lý, phản bội mới đúng là trung
thành với
Đảng!
Human
kind cannot bear very
much reality
Cái thứ người không chịu nổi
quá nhiều thực tại
T.S. Eliot
*
GOD'S SPIES
Điệp viên của Chúa
"I wish all
the lies were
unnecessary," Castle confides to Boris, his Soviet control. "And I
wish we were on the same side."
"Tôi mong muốn những lời dối trá thì không cần thiết, và chúng ta thì
cùng một phe"
PXA nói với Trùm Xịa, trong Gã Điệp Viên Mê Mẽo. The Spy Who Loves US
Human
Factor
Faith
in spies is mystical, fuelled by fantasy and
halfway to religion. They're a protected species in our national
psychology.
Our banks and financial services may collapse, our economy may be going
through
the floor, our road and rail system may be a catastrophe, our
Millennium
Dome a laughing stock, the cost of fuel, energy, and water rising by
the week,
but our spies are immune to all of it.
John Le Carré: The Madness of Spies.
Niềm tin vào điệp viên thì cũng kỳ bí, và như được
nung nấu bằng ba cái trò kỳ quặc, vào tôn giáo nửa vời. Hệ thống ngân
hàng, dịch
vụ tài chính có thể sập, kinh tế có thể suy thoái, đường xá có thể hư
hỏng, tê
liệt… nhưng những điệp viên của chúng ta thì coi như được miễn nhiễm
với tất cả
những chuyện đó.
|
|