Một chủ nhật khác
Kiệt
sống ở ngoại quốc trên
mười năm. Mười tám tuổi đỗ tú tài, ông bố vận động cho đi du học. Bố
Kiệt, một
người thức thời, hồi cư về đến Hà Nội đã bán hết cơ nghiệp mấy đời tạo
lập ở
Hải Dương, đưa gia đình vào Sàigòn kinh doanh trước năm 54. Kiệt thật
tâm không
thích đi xa, mẹ chàng cũng không muốn rời đứa con độc nhất của bà.
Nhưng cả hai
không thể cưỡng ý ông bố. Ông không muốn con trai ông đi lính. Ngày
Kiệt đi,
hai mẹ con cùng khóc sụt sùi. Là con một nên từ bé đến năm mười tám
tuổi (bình
yên ở nhà quê đã có thể lấy vợ đẻ con rồi) Kiệt chỉ sống quẩn bên gấu
quần mẹ.
Kiệt học cơ khí ở Đức, học
Quản Trị ở Mỹ. Việc học hành của chàng tuân theo sự chỉ dẫn của ông bố.
Chàng
không hề bầy tỏ ý kiến riêng. Kiệt là đứa con chí hiếu. Nếu được tự lựa
chọn,
chắc Kiệt học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những năm tản cư chạy loạn,
chàng
thích đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê suốt thời thơ ấu mà
chàng
phải giấu ông bố. Chỉ mẹ biết mà thôi. Nhưng người đàn bà ấy, bình lặng
đơn sơ
như chiếc bóng bên con, không hiểu gì về những cõi xa xôi ngoài thực
tế. Yêu
con nhưng sợ chồng, bà không dám chia sẻ mối đam mê của Kiệt. Ngày nhỏ,
Kiệt
chỉ hát khi nhà vắng bố. Kiệt có một cây kèn harmonica, thường thổi cho
mẹ nghe
những buổi chiều tối hiu quạnh thui thủi hai mẹ con với nhau.
Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ
chàng mất. Chàng chỉ được bố báo tin sau khi chôn cất bà xong xuôi. Ông
không
muốn chỉ vì những lễ nghi hình thức bắt Kiệt về chịu tang, và dù về
cũng chẳng
kịp - bà chết vì bệnh cảm mạo mau lẹ, bất ngờ. Kiệt thương mẹ, lòng cảm
thấy
bất nhẫn, nhưng chàng chẳng có lý lẽ nào để chê trách bố. Ông cũng đau
khổ chứ?
Ngày ấy, nơi xứ người, lần
đầu trong đời, Kiệt một mình dến quán rượu uống say bí tỉ, khóc mẹ.
Cũng lần
đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo lắng, tính toán quá sáng suốt
lạnh
lùng của ông bố. Mẹ chàng đã đau khổ những năm chàng ở xa, đau khổ hơn
nữa, lúc
nhắm mắt lìa đời cũng không được nhìn mặt chàng. Nếu như Kiệt nhất định
không
chịu rời mẹ, chàng không đi học nước ngoài?
Cánh cửa phòng Kiệt đã kéo
khép, bây giờ gió xô hé. Ánh đèn rọi vệt sáng nghiêng trên hành lang.
Kiệt mơ hồ thấy một cánh bướm
đen bay lạc vào bóng tối cuối hành lang nơi có những phòng bỏ trống.
Đáng lẽ Kiệt phải tức tốc bay
về khi hay tin mẹ mất dù đã trễ muộn. Dù bà chẳng còn có thể nhìn thấy
mặt
chàng và chàng cũng chẳng còn nhìn thấy mặt bà. Dù chàng có bị giữ lại.
Đáng lý
chàng phải bay về nôn nả như sau này chàng đã đáp ứng lời gọi của Thùy.
Chàng
đã không làm, tại sao?
Sau khi mẹ chết Kiệt quyết
định vĩnh viễn không về nước. Thùy làm chàng thay đổi quyết định.
Mấy tháng đầu trở lại quê
hương, Kiệt lạc mất quá khứ. Đầu mối ràng buộc chàng với quãng đời mười
tám năm
ở xứ sở là mẹ chàng đã đứt. Chàng đến thăm ông bố. Ông đã lập gia đình,
có ba
đứa con với bà vợ sau. Hai bố con ngồi với nhau trong phòng khách. Ông
mời
chàng về ở trong nhà, chàng từ chối. Ông mời chàng lưu lại dùng cơm
tối, giới
thiệu chàng với vợ con ông và tiễn chân chàng tới tận cổng ngoài, bắt
tay từ
biệt hẹn tái ngộ. Chàng mời ông đứng chủ hôn lễ của chàng và cảm ơn ông
về tất
cả những nghi thức phiền toái ông phải làm vì chàng. Kiệt không hiểu
tại sao
bao nhiêu năm trời chàng đã tuân hành theo ý ông chẳng dám thốt một lời
phàn
nàn.
Kiệt lạc lõng giữa những kỷ
niệm hờ hững của mọi người và những kỷ niệm lác đác le lói nơi chàng.
Chàng
chẳng tìm thấy bóng chàng đâu cả. Mẹ chàng đã mang theo xuống mồ.
Nếu Kiệt không về ngày ấy,
chàng đã qua Phi Châu. Kiệt được tuyển làm chuyên viên trong một tổ
chức của
Liên Hiệp Quốc.
Nhưng Kiệt đã về.
Mấy đứa sang cùng chuyến với
Kiệt biệt tăm luôn. Chúng sống dễ dàng. Có công ăn việc làm, lấy vợ đẻ
con theo
nền nếp dân bản xứ chính cống. Có đứa làm nên danh phận, có đứa đóng
vai lưu
vong. Có đứa lêu bêu khốn khổ. Chẳng đứa nào tơ tưởng đến quê hương,
chốn ấy
chỉ còn trong kỷ niệm để nhắc nhở khi gặp nhau. Đến một ngày rồi chúng
cũng
chẳng cần thiết nhắc nhở nữa.
Kiệt nhớ đứa cháu họ như là
bạn ở phương trời ấy. Hắn phá ngang sống đời nghệ sĩ. Vẽ tranh, tập sự
nghề
điện ảnh, làm bài hát, viết truyện trinh thám ký tên đặc Tây. Và chết
vì bệnh
lao phổi. Kiệt cũng có thể sống một đời như thế, tại sao không? Đó
chẳng là
cách biệt tích ư?
*
Ông bố của tay Kiệt này, nguyên mẫu ngoài đời, là ông già của BHD.
Ông này, cũng thức thời, bỏ chạy Hà Nội, vào Sài Gòn với sản nghiệp
mang theo, cũng tàn nhẫn như mọi ông bố Bắc Kít, nhưng chỉ đến khi BHD
ra đi rồi thì Gấu mới nhận ra thông điệp của Em để lại.
Một mình em phải
gọi ông ta là Bố, là đủ rồi!
*
Volkov: Viết về Stravinsky,
Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một nghệ sĩ bậc thầy
với thứ
cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng, bạn không thể nào
nhận ra,
bài nào viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có nghĩa, khi tới một độ
chín nào
đó, nhà thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại chỗ. Còn thứ
nghệ sĩ
lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo lên đỉnh trời
cao
hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói
đúng quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong tiến trình sáng
tạo. Khi
một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong, thay cả
tên của
mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ khác nhau.
Bạn nhìn ra một vô cùng cách
biệt giữa Thơ Ở Đâu Xa và những tập thơ trước đó của TTT.
Điều này dễ hiểu, một trước,
một sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất, là sự vô cùng
cách biệt, giữa Một Chủ Nhật Khác và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một anh bạn cho biết,
anh không thích Một Chủ Nhật Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải thích: không có
đám mình trong đó.
Cái anh chàng Kiệt bỏ chạy,
rồi vội vàng bò về, vừa kịp để... chết, làm sao lại là một trong đám
mình được?
*
Ở đầu truyện có cảnh Kiệt,
đang học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày phép cuối tuần,
thay vì
như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô, ra bến xe đi
một lèo
xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm thèm chết quá,
bèn cứa
mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị vợ tra vấn quá,
phịa
chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn tránh ba
cuộc:
Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới
thực sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả
viết đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau?
*
Lạ, cảnh trên Hai Lúa cũng đã
từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần về Mỹ Tho, Cai Lậy,
để kiếm
một cô gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày đó, Sài Gòn chưa
hế biết đến chiến tranh.
*
Tôi biết anh còn muốn kể lại,
lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận
lỵ, khi đi
ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên
tai. Đó là
lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh
tưởng
tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ
của thiên
nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự
thông
cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt
khác, một
cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện
*
Joseph Brodsky lại đưa ra một
lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là "cảm
xúc
nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent
expression
of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng, như
Pushkin,
Mozart, thí dụ vậy.
"Không có biểu hiện hung
bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó."
-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn
nhắm tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm xúc?"
Nhà thơ trả lời, đây là vấn
đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc
còn
nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được sắp xếp
lại?…
"Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay
đổi.
Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có giọng trầm bổng
của riêng nó.
Điều
này giải thích những
dòng thơ "thiền" trong Thơ Ở Đâu Xa với những dòng thơ trước đó của
Thanh Tâm Tuyền.
*
Khủng khiếp thay là trí tưởng
tượng của Gấu! Vừa nghe đánh ầm một tiếng, quả pháo đầu tiên từ chi khu
bắn đi
làm mặt nước sông run lên bần bật, thì cái
đầu của Gấu cũng ngộ ra là, mình yêu cô bạn, phải như thế, đúng như
thế, nếu
không làm sao có chấn động khủng khiếp đến như thế, vào đúng lúc đó ?
Nhưng có thể, cảnh phiên chợ vội vàng thu vén, chờ đêm xuống, giao lại
cho VC,
đã khiến cho tình cảnh thê thảm thêm lên chăng?
Ui
chao, bao nhiêu nằm trời,
vậy mà đọc Rừng Tràm một cái, là đồng loạt hiện về, phiên chợ chiều Cai
Lậy, cây
cầu gỗ, mặt nước sông…
*
Nhưng đâu chỉ riêng Gấu... khùng. Pamuk cũng khùng như vậy, và giải
thích cho cái sự khùng điên của mình, bằng cách lấy một câu của Proust
làm đề từ cho cuốn Lâu Đài Trắng của
ông:
To imagine that a person
who intrigues us has access to a way of life unknown and all the more
attractive for its mystery, to believe that we will begin to live only through the love of
that person - what else is this but the birth of great passion?
Marcel Proust, from the mistranslation of Y.K. Karaosmanoglu
Phiên chợ chiều vội vàng thu vén, cây cầu gỗ, tiếng đại bác bắn đi, mặt
nước sông nhăn nhó.... là cái chi chi, nếu không phải là sự ra đời của
một đam mê lớn: Cô bạn của Gấu?
,
Đà Lạt
Một Chủ
Nhật Khác: Cuốn tiểu
thuyết duy nhất, đầu tiên, và có thể, cuối cùng của Thanh Tâm Tuyền?
Trường hợp MCNK làm nhớ tới Những Kẻ Làm Bạc Giả
của Gide. Cũng một cuốn tiểu thuyết duy nhất của một nhà
văn với hầm bà làng tác phẩm.
"Không có bạn, liệu tôi
viết nổi cuốn sách này không? Tôi nghi ngờ điều đó, bởi vậy xin tặng
bạn cuốn
sách này."
Đó là lời đề tặng, trên bản
thảo cuốn Những Kẻ làm Bạc Giả,
của André Gide.
Khi được xb, lời đề tặng ngắn
gọn hơn, nhưng giật gân hơn: “Tặng Roger Martin du Gard cuốn tiểu
thuyết đầu
tiên của tôi”.
Có giai thoại, Gide viết tác
phẩm trên, khi bị Martin du Gard chê, bạn đếch biết viết tiểu thuyết.
*
Ở một trong những chương đầu
Một Chủ Nhật Khác, tác giả mô tả giáo sư Kiệt.
-Succès fou. [Thành công
như điên], Duy phụ họa -
Giáo sư Kiệt có một vẻ đẹp
"tàn nhẫn", "đầy đực tính" không tưởng nổi. Tôi đã từng
nghe một cô sinh viên phê bình. Nguyên văn đấy.
Nhưng suốt cả cuốn truyện,
anh chàng xuội lơ.
Lần đầu đi với em Oanh, mồ
hôi đầy tay, đổ cho bịnh khỉ gì đó, [Em có hiểu tại sao chân anh run,
đó là
tại anh bị bệnh tê thấp. Khúc Thụy Du, Du Tử Lê]. Lần vợ lên thăm, cứ
trơ ra, ỳ
ra!