Những đứa con của trí tưởng
Khoảng năm 1988, do sinh kế, gia đình tôi mở ngay một sạp báo trước
ngõ. Chủ
nhân đích thực, ông cán bộ nhà kế bên. Như một cách giữ chỗ, trước khi
về hưu,
và cũng muốn giúp đỡ gia đình nguỵ. Cư xá tôi ở vốn thuộc nhà nước cũ,
đa số là
công chức có nghề chuyên môn được nhà nước "cách mạng" cho lưu dụng,
sau ba ngày cải tạo tại chỗ.
Đó là những chuyện ngay sau
ngày 30/4/75.
Thời điểm 1988-89 đã có chủ
trương
"cởi trói" cho những văn sĩ. Có thể nhờ vậy, văn chương, văn nghệ sĩ
nguỵ được "ăn theo". Một số sách trước 1975, nay thấy tái bản, dưới
một tên khác. Do biết ngoại ngữ, tôi được một người quen làm nghề xuất
mướn
dịch một số tác phẩm, như của nhà văn y sĩ người Anh, Cronin. Rồi một
người quen,
trước 75 cũng có viết lách, nay làm nghề sửa mo-rát cho nhà xuất bản
nhà nước,
cho biết, ông chủ của anh muốn tái bản, tác phẩm Hemingway, Mặt Trời
Vẫn Mọc do
tôi dịch. Tới gặp, ông cho biết cần phải sửa. Thứ nhất, bản dịch của
tôi sử
dụng quá nhiều tiếng địa phương, thí dụ như "bồ tèo", "xập
xệ"... Thứ hai, có nhiều chỗ dịch sai. Tôi về nhà coi lại, quả đúng như
thế thật.
Trước 1975, sách dịch chạy theo
nhu cầu
thương mại. Cứ thấy một tác giả ngoại quốc ăn khách, vừa được Nobel...
là đua
nhau dịch. Hồi đó, tôi làm cho nhà xuất bản Vàng Son của ông Nhàn, số
32 Nguyễn
Bỉnh Khiêm, còn là nhà in của linh mục Cao Văn Luận. Một chi nhánh của
nhà xuất
bản Sống Mới. Trước đó, tôi đã dịch một cuốn về cuộc đổ bộ Normandie,
nhưng do
cuốn phim Ngày Dài Nhất đang ăn khách, ông Nhàn cho đổi tên cuốn sách,
không
ngờ lại trùng với bản dịch Ngày Dài Nhất của một nhà xuất bản khác. Thế
là mạnh
ai dịch. Dịch hối hả, dịch chối chết, mong sao ra trước kẻ địch!
Cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc cũng gặp
tình trạng
tương tự. Hemingway đang ăn khách. Huỳnh Phan Anh, ông bạn tôi "chớp"
Chuông Gọi Hồn Ai. Tôi vớ "thế hệ bỏ đi", tuy rằng Mặt Trời Vẫn Mọc!
Ngồi ngay tại nhà in, dịch tới đâu thợ sắp chữ lấy tới đó.
Đọc lại, ngượng chín người. Thí
dụ như
câu: cuối năm thứ nhì (của cuộc hôn nhân): at the end of the second
year, tôi
đọc ra sao thành: cuối cuộc đệ nhị chiến, at the end of the second war!
Sau đó, tôi làm việc với nhà
xb, sửa lại
bản dịch, dưới sự "kiểm tra" của Nhật Tuấn, ông em Nhật Tiến. Thời
gian này, tôi quen thêm Đỗ Trung Quân, nhân viên chạy việc cho nhà xuất
bản nọ.
Rồi qua anh, qua việc bán sách báo, qua việc dịch thuật... tôi quen
thêm một số
anh em trẻ lúc đó viết cho tờ Tuổi Trẻ, như Nguyễn Đông Thức, Đoàn
Thạch
Biền... Họ đều biết tôi, từ trước 75. Đoàn Thạch Biền trước 75 đã viết
cho Văn
qua tên Nguyễn Thanh Trịnh.
Tôi không còn nhớ rõ, ai trong
số họ, đề
nghị tôi viết mục đọc sách cho Tuổi Trẻ. Bài đầu tiên, là về cuốn Thám
Tử Buồn,
một truyện dịch của một tác giả Nga. Thảm cảnh của nước Nga sau đổi
mới. Băng
hoại tinh thần và đạo đức đưa đến tội ác. Trong đó có những cảnh như là
con
cháu đưa bố mẹ tới mộ, chưa kịp hạ huyệt, xác bố mẹ còn bỏ trơ đó, đã
vội vàng
về nhà tranh đoạt của cải. Bố mẹ trẻ bỏ nhà đi du hí, đứa con bị chết
đói, khi
khám phá thấy miệng đứa bé còn cả một con dán chưa kịp nuốt thay cho
sữa! Cuốn
tiếp theo, là Ngôi Nhà Của Những Hồn Ma, của Isabel Allende. Tới cuốn
thứ ba là
bị đụng! Một cuốn của Hoàng Lại Giang, "ông chủ" bất dắc dĩ của
tôi. Trong bài viết, khi đọc lại, tôi thấy có từ "nguỵ".
Thật tình mà nói, không biết
biết do tôi
viết, hay đã bị sửa. Có thể do tôi. Bởi vì, vào thời điểm lúc đó,
"nguỵ" là một từ đám chúng tôi rất ưa dùng, có khi còn hãnh diện khi
nhắc tới, nếu may mắn được ngồi chung với dăm ba quan cách mạng. Nhưng
một khi
xuất hiện trong một bài viết, nhất là về một tác giả như Hoàng
Lại Giang,
vấn đề lại khác hẳn. Tôi nghỉ viết cho Tuổi Trẻ sau bài đó.
Một bữa đang đứng bán báo, Đ.
ghé vô. Anh
là bạn Huỳnh Phan Anh, trước 75 làm giáo sư. Sau cộng tác với tờ Tuổi
Trẻ. Nói
chuyện vài câu, anh đưa tôi một mớ tiền. Hỏi, tiền gì? Trả lời:
tiền
nhuận bút đưa trước. Hỏi viết báo nào? Anh mỉm cười: viết báo hải ngoại!
Hóa ra là, lúc đó có chủ trương
làm báo
hải ngoại, từ trong nước, do mấy quan cách mạng cầm chịch. Bài viết,
theo Đ.,
tha hồ "đập" nhà nước, y chang báo hải ngoại, kẻ thù cách mạng, chắc
vậy!
Đúng vào thời gian này, một
khách hàng
quen của sạp báo, nhờ tôi kiếm dùm bản dịch tiếng Pháp Tội ác và Trừng
Phạt của
Dostoevsky. Có rồi, như để trả ơn, anh úp úp mở mở chìa cho tôi xem một
tờ báo
Time, đã được ngụy trang bằng một cái vỏ bọc, là trang bìa tờ Đại Đoàn
Kết. Tôi
hỏi mượn, anh gật đầu. Trong số báo đó, có một bài essay nhan đề: Sách,
những
đứa con của trí tưởng (Books, children of the mind).
Bài trên Time, là nhân vụ cháy
một thư
viện nổi tiếng ở Nga, hình như là thư viện St. Petersburg. Sự thiệt
hại, theo
như tác giả bài báo, là không thể tưởng tượng, và "không thể tha thứ"
được. Ông tự hỏi tại sao lại xẩy ra một chuyện "quái đản" như
vậy? Rồi ông tự giải thích, cái nước Nga nó vốn vậy, và chỉ ở đó mới có
những
chuyện quái đản như thế xẩy ra. Ông dẫn chứng: Thời gian thành phố St.
Petersburg bị quân đội Quốc Xã Đức vây hãm 900 ngày, dài nhất trong
lịch sử hiện
đại; trong khi nhân dân thành phố lả vì lạnh và vì đói, tiếng thơ
Puskhin vẫn
ngân lên qua đài phát thanh thành phố, cho cả nước Nga cùng nghe. Nhưng
theo ông,
cũng chính nước Nga là xứ sở đầu tiên đưa ra lệnh kiểm duyệt báo chí,
và đưa
văn nghệ sĩ đi đầy ở Sibérie... Ông còn dẫn chứng nhiều nữa. Trong khi
đọc bài
báo, lén lút, những khi vắng khách hàng, nhìn những cuốn sách đang được
bầy bán
trên sạp tôi chợt nhận ra một sự thực: chúng đều mới tái sinh, từ đống
tro than
là cuộc phần thư năm 1975. Cuốn Khách Lạ Ở Thiên Đường, của Cronin đang
nằm kia,
vốn đã được dịch. Nhiều cuốn khác nữa, chúng đang mỉm cười nhìn tôi:
Hà, tưởng
gì. chúng mình lại gặp nhau!
Tôi mượn tác giả tên bài viết,
viết về nỗi
vui tái ngộ, về cuộc huỷ diệt sách trước đó. Về những đứa con của trí
tưởng, có
khi cần được tẩày rửa, bằng "lửa". Tuy đau xót, nhưng đôi khi thật
cần thiết. Tiện đà, tôi viết về những tác giả đang nổi tiếng, và tiên
đoán một
cuộc phần thư thứ nhì sẽ xẩy ra, do chính họ, tự nguyện, nếu muốn lịch
sử văn
học Việt Nam lại có một cuộc tái sinh!
Đ. nhận bài, hí hửng mang về.
Hai ba ngày
sau, anh quay lại, trả bài viết, nói, không được! Nhưng thôi, tiền tạm
ứng biếu
anh! Hỏi, anh cho biết: ông chủ nhiệm của tờ báo hải ngoại, sau khi đọc
bài
viết, đi gặp thủ trưởng, yêu cầu: nếu cho đăng những bài như thế này,
cho dù là
ở hải ngoại, phải cấp cho ông một tờ giấy chứng nhận, "nhà nước" đã
cho phép ông làm, qua cương vị chủ bút. Nếu không sau này, cả ông lẫn
người
viết đều đi tù!
Lệnh "miệng' thì được, bố ai
dám thò
tay ký một văn bản "chết người" như vậy!
Đoàn Thạch Biền nghe kể chuyện,
chạy tới:
để tôi, in trên tờ báo có mục anh phụ trách, hình như tờ Công Luận, ở
ngay phía
đối diện Bưu Điện, khu có quán cà-phê đám văn nghệ sĩ thường la cà.
Nhưng rồi
cũng lại lắc đầu, không được! Người viết thử lại một lần nữa, đem đến
cho tờ
Kiến Thức Ngày Nay. Tuần sau trở lại, gặp một anh thư ký trẻ măng, kính
cận dầy
cộm. Anh nhìn, ngạc nhiên ra mặt: ông là ai sao tôi chưa từng biết,
chưa từng
nghe qua? Anh cho biết, lệ thường, bài được đánh máy hai bản, một để
làm tài liệu,
một đưa đi sắp chữ. Bài của ông, chúng tôi phải đánh máy ba bản, một
đưa qua
mấy anh bên Hội Văn Nghệ Thành Phố, để các anh duyệt, nếu cần, xin ý
kiến thành
uỷ! Các anh cho biết, cho đăng, nhưng phải sửa rất nhiều đoạn!
Tôi xin lại bài viết.
Bài viết, sau đó, nằm trong tay
một người
viết thuộc ban chủ trương tờ Tuổi Trẻ lúc đó. Anh nói: tôi giữ lại đây,
hy vọng
sau này có dịp đăng. Như một cách giúp đỡ: vì anh có sạp báo, tôi đề
nghị mỗi
tuần anh điểm hết mấy cuốn sách mới xuất bản, theo kiểu tóm tắt nội
dung, không
cần phê bình, toà báo sẽ trả nhuận bút, theo giá biểu những cuốn sách.
Nhưng
liền sau đó, tôi gặp lại một người bạn, và qua anh, gia đình chúng tôi
đã thực
hiện chuyến đi dài, chạy trốn quê hương.
Viết lại chuyện trên, tôi bỗng
nhớ những
ngày làm việc tại nhà xb nọ. Tôi đã gặp ở đó, một số văn nghệ sĩ Miền
Bắc.
Ngoài Nhật Tuấn, Hoàng Lại Giang, những người khác đều không biết tôi,
và tôi
cũng chẳng biết họ. Nghĩa là hai bên chẳng có chuyện gì để nói. Tôi vẫn
còn nhớ
thái độ thân thiện, cởi mở của những người tôi đã từng trò chuyện, tôi
vẫn còn
nhớ những khuôn mặt trong sáng đầy tin tưởng của những người bạn trẻ
như Đoàn
Thạch Biền, Đỗ Trung Quân, và nhất là dáng ân cần khi đưa ra đề nghị
cộng tác,
của anh phụ trách tờ Tuổi Trẻ (hình như tên Thức, không phải Nguyễn
Đông Thức.
Đó là thời gian còn Kim Hạnh)...
Những người viết Miền Nam trước
1975, ở
lại, hình như đều viết trở lại. Tôi có lẽ là người đầu tiên được nhà
xuất bản
Văn Học đề nghị tái bản bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.
Tôi nhớ lại chuyện trên,
nhân Sông
Côn Mùa Lũ, của Nguyễn Mộng Giác, một tác giả hải ngoại, được "tái
bản" ở trong nước.
Trong bài viết Perfect
Pitch, ký giả
David Remnick kể lại lần ông gặp Joseph Brodsky, vào năm 1987, hai tuần
lễ sau
khi nhà thơ được giải Nobel văn chương. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại căn nhà
hầm
(basement apartment), phố Morton Street, trong khu Greenwich
Village, New
York. Đó là thời điểm bắt đầu chính sách glasnost. Thơ của ông được
xuất bản ở
trong nước, lần đầu tiên, sau hơn hai thập kỷ. "Ông không thèm giấu
diếm,
dù chỉ một tí, niềm vui của mình, về chuyện này", nhà báo Remnick viết.
Và
nhà báo giải thích về niềm vui của nhà thơ: Đối với một chính quyền đã
cho xuất
bản tác phẩm của ông, và của những nhà văn nhà thơ "bị biếm"
khác,
điều này có nghĩa: trả lại của cải bị ăn trộm, cho chủ nhân. Và David
Remnick
cho rằng: đâu cần phải biết ơn kẻ trộm!
Có người tự hỏi về ý nghĩa một
bộ sách như
Sông Côn Mùa Lũ, bầy bên cạnh Lênin tuyển tập, Nhật Ký Trong Tù...., ở
đây theo
tôi, nếu có sự thất thế, tủi nhục, thì phần lớn là thuộc về kẻ ăn trộm
chứ
không phải người bị mất trộm!
Đâu cần phải biết ơn kẻ trộm.
Có một
chiều tháng năm
Đỗ Trung Quân
Mấy đấng Đỗ thi sĩ, Nguyễn
Thanh Trịnh,
tức Đoàn Thạch Biền sau này, đều rất quí Gấu. Hay nói rộng ra, những
mầm non
văn chương cách mạng được ‘trồng’ bởi thức ăn Miền Nam, bởi bầu khí
VNCH! Họ
khác hẳn đám nhà văn Miền Bắc, khi trở về Miền Bắc, là Gấu nhận ra liền
sự khác
biệt. Tuy cả hai đều quí Gấu, thế mới lạ!
Đoàn Thạch Biền đã từng in cho Gấu một cuốn sách dịch, Khiêu Vũ với
Thần
Chết, On achève bien
les cheveaux.
Chuyện này xẩy ra sau Cách Mạng. Lúc đó Gấu đói lắm.
Đói đủ thứ! [Viết vậy là bạn ta hiểu!]
Nhân đây, cám ơn bạn cũ. NQT.
Cái cú in sách này cũng ly kỳ lắm. Sắp đi rồi, khui ra cũng dzui!
*
Những đứa con
của trí tưởng
Tôi vẫn còn nhớ thái độ thân
thiện, cởi mở
của những người tôi đã từng trò chuyện, tôi vẫn còn nhớ những khuôn mặt
trong
sáng đầy tin tưởng của những người bạn trẻ như Đoàn Thạch Biền, Đỗ
Trung Quân,
và nhất là dáng ân cần khi đưa ra đề nghị cộng tác, của anh phụ trách
tờ Tuổi
Trẻ (hình như tên Thức, không phải Nguyễn Đông Thức. Đó là thời gian
còn Kim
Hạnh)...
Những người viết Miền Nam
trước 1975, ở lại, hình như đều viết trở lại. Tôi có lẽ là người đầu
tiên được
nhà xuất bản Văn Học đề nghị tái bản bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.
*
Cuốn Người ta làm thịt cả ngựa, của Horace McCoy, là một cuốn
sách đen,
série noire, Gấu đọc từ trước 1975, thời gian vừa đọc vừa học tiếng
Tây, cùng
với những tác giả như Simenon, J.H. Chase.. thời kỳ ra trường Bưu
Điện
chừng hai năm, đã đổi qua bên VTD Quốc Tế, cầy thêm job cho UPI, đọc
cùng lúc
với ông Hưng, chuyên viên gửi hình VTD, radiophoto, của AP, ông Hưng
thì mê
những tác giả khác không giống Gấu, thí dụ Carter Brown.
Sau 1975, tay PMH nhờ Gấu dịch theo nguyên tác tiếng Anh, They Shoot
Horses,
Don’t They? Tay này làm cho nhà xuất bản Văn Học, bộ phận phía Nam,
và còn là một lái sách. Gấu biết anh ta, khi đến VH để lo biên tập cuốn
Mặt
Trời Vẫn Mọc, theo bản dịch trước 1975 của Gấu, dưới sự giám sát của
tay Nhật
Tuấn, nhà văn Miền Bắc, anh ruột, hay em ruột của Nhật Tiến. Cái vụ xb
lại cuốn
này, là cũng nhờ Nguyễn Mai, khi đó làm thợ sửa mo rát cho VH. Để có
được bản
dịch cuốn MTVM, Gấu phải cầu cứu Jospeph Huỳnh Văn, có bà con làm ở Thư
Viện
Quốc Gia, nhờ mượn về, đưa cho nhà xb VH làm mẫu. Joseph HV tới lúc đó
mới đọc
văn dịch của Gấu, gật gù, mi bảnh thật, hơn cả thằng em tao, nó Tú Tài
Tây, mà
thua mi!
Đưa trước một mớ. Dịch xong, anh ta đếch thèm in. Thế rồi một bữa, Gấu
thấy
cuốn sách của mình nằm ngay trước mắt mình, vì lúc đó, Gấu đang làm
thằng bán
báo, tại sạp nhà, ngay trước chúng cư 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn
*
On achève bien les chevaux
Titre original They Shoot Horses, Don't They?
inspiré du roman de Horace McCoy
On achève bien les chevaux (They Shoot Horses, Don’t They? dans la
version
originale) est un film américain réalisé par Sydney Pollack, sorti sur
les
écrans en 1969. inspiré d'un roman de Horace McCoy.
L’action se situe au début des années 1930, en Californie. Au cœur de
la grande
dépression, on se presse pour participer à l’un des nombreux marathons
de danse
organisés à travers le pays pour gagner les primes importantes qui y
sont mises
en jeu. Robert et Gloria font partie de ces candidats...Au-delà de
l'anecdote,
c’est à une lecture de notre propre société qu’invite ce film, par
opposition entre
l'enfer que vivent les participants de ce marathon - privés de sommeil
et de
temps de réfléchir, et soumis à des épreuves cruelles (où mourra l'un
d'entre
eux) - et la beauté du paysage et du soleil levant entrevus de façon
fugitive à
l'extérieur. Sydney Pollack indiqua avoir attaché une grande importance
au
personnage de l'animateur, « symbole de tout ce que l'Amérique avait de
pire et
de meilleur ». Mais on peut aussi y voir une réflexion sur l'absurdité
de la
condition humaine
Wikipedia
*
Cái cuốn truyện, sau chuyển thể điện ảnh, Gấu đọc, trước 1975, và dịch,
sau
1975, như tiên đoán cơn suy thoái của Mẽo, và của thế giới, thế mới
quái dị,
nếu bạn đọc những lời giới thiệu trên.
Tay PMH, không hiểu nghe ai nói về cuốn sách, đưa Gấu bản tiếng Anh,
Gấu đánh
vật với nó, đến khi đưa, anh ta chê, vứt một xó, Đoàn Thạch Biền nhặt
lên, bèn ơ
rơ ka một phát, hay như thế này mà sao mày chê, đúng là... thi sĩ!
Ui chao, chẳng lẽ cái nhìn tiên tri của anh "tiên tri" đến tận những
ngày này?
Cái tít Khiêu Vũ với Thần Chết quả là đắc địa!
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, trong cơn suy thoái, khách du lịch vắng
teo, nhà
nưóc Mít chúng ta tổ chức cuộc thi Khiêu Vũ với Thần Chết, từng cặp,
từng cặp,
đăng ký nhẩy hoài nhảy huỷ, ngày này qua ngày nọ... cho đến khi tất cả
đều xỉu,
chỉ còn một cặp độc nhất đứng vững, là thắng!