The critic is an
epistemologist [Nhà phê bình là nhà tri thức luận]
The reader is servant to the
text [Nhà độc giả là đầy tớ của bản văn]
'Great Readers', says Borges,
who is himself one, are 'rarer than great
writers.' The list would include Montaigne reading Seneca and
re-reading
himself; Coleridge reading Jacobi and Schelling, a reading whose motion
of
acquiescence and metamorphic repossession Thomas McFarland has analyzed
with a
tact equaling that of any other study of the stress of influence; Peguy
reading
Corneille and Victor Hugo; Walter Benjamin reading Goethe's Elective
Affinities; Heidegger reading Sophocles and Trakl (not Holderlin,
whom he
often reads wilfully and with opportunism);
Mandelstam reading Dante and Chenier; Alexandre Koyre reading Galileo;
Nabokov
reading (not translating) Pushkin; Jean Starobinski reading Rousseau;
William
Empson reading complex words; Gianfranco Contini reading the Proven~al
poets,
Dante, and Montale; Pierre Boutang reading Plato's Philehus; Michael
Dummmett
reading Frege, where depth and openness of reading are radically
creative; D.
Came-Ross reading Gongora and Ariosto; Gershon Scholem reading the
Kabbalists
and reading Walter Benjamin…
Nhà độc giả vĩ đại thì hiếm
lắm, hiếm hơn, so với nhà văn nhớn, Borges phán.
Bản thân Ngài, là một nhà độc giả nhớn. Montaigne đọc Seneca và đọc lại
chính
mình, Coleridge đọc Jacobi và Schelling....
G. Steiner: "Critic/Reader"
Giá như mà có thể thêm vô: Gấu đọc Steiner và đọc lại
Gấu!
*
“Beyond Criticism”:
Vượt quá
phê bình
Hai cuốn sách đầu tiên mà Gấu
đọc, khi vừa
mới vô Nam
là Đêm hay Ngày, của Koestler, và Tôi chọn tự do. Cả hai
đều do
Phòng Thông Tin Huê Kỳ phát hành. Sách Chống Cộng, cho không, biếu
không. Thành
thử đọc thì cũng đọc vậy, vì vào cái tuổi đó, đọc bất cứ cái gì, cầm tờ
giấy,
mảnh báo đi cầu cũng đọc đến thủng cả giấy nữa là!
Lạ, càng về già, hai cuốn càng gây ám ảnh, chúng như không quên Gấu, và
như bực
tức: Ngày nào mi coi thường 'chúng ông', nhớ nhé!
Đêm hay Ngày, khỏi nói. Cuốn thứ nhì, Tôi chọn
tự do, mới liền
đây, đọc một bài viết trên tờ báo Điểm Sách London, vớ được một
chi tiết
thật là tuyệt vời về nó!
Tác giả I Chose Freedom, Tôi chọn Tự do, là một tay đào thoát
thiên
đường Liên Xô, Victor Kravchenko. Cuốn sách xuất bản năm 1946. Bị đám
tả phái
trên toàn thế giới chửi, nhưng khi tờ báo của Đảng CS Pháp, Lettres
Francaises,
buộc tội tác giả là một tên dối trá, và là điệp viên của Tây Phương,
ông bèn
lôi tờ báo ra tòa.
Tác giả lôi một tác giả khác ra, cùng với cuốn sách của người này, làm
chứng
cho ông, vậy mà thắng kiện!
Cuốn sách nào, tác giả nào mà bảnh thế?
Tác phẩm: Một cổ hai tròng [Under Two Dictators]: Tù nhân của Stalin
và
Hitler.
Tác giả: Margarette Buber-Neumann.
Người dịch Edward Fitzgerald
Eliane Glaser điểm, trên Điểm sách London
số 20 Tháng 11, 2008.
Người điểm sách đưa ra một vấn đề thật hắc búa: Làm sao đọc, và điểm
thứ sách
viết từ “đáy địa ngục”?
Và trích dẫn: Khi Al Alvarez điểm Đêm của Elie Wiesel, một hồi
ức về Lò
Thiêu, đã đưa ra nhận xét, “như là một tài liệu nhân văn, Đêm
đau nhức
không thể chịu được, và vượt quá phê bình”.
Nhưng liệu có thứ tác phẩm vượt quá phê?
*
Lại nói chuyện 'đau nhức đến không thể chịu được": Gấu mấy ngày hôm nay
quả là đang chịu đựng cái cú đau nhức khủng khiếp đó, do con vai rớt
Bắc Kỳ
hành hạ!
Con vai rớt này, đúng là con vai rớt Bắc Kít. Nói rõ hơn, nó là con vai
rớt gây
ra bệnh đậu mùa, mà Gấu bị, khi còn nhỏ, ở Đất Bắc. Bệnh hết, nhưng con
vai rớt
không chết hẳn, nó nằm phục trong cơ thể, đợi khi về già, sống dậy, làm
ngụy,
gây ra những vết đau nhức khủng khiếp mà Mít dân Bắc gọi là "giời
leo", tụi mũi lõ ở đây gọi là shingles.
Cô pharmacist lắc đầu thương hại Gấu, khi đưa thuốc, khủng khiếp phải
không,
terrible, hehe?
*
Tờ Điểm sách London
số 20 Tháng 11 2008, bài Về chuyện phàn nàn, On
complaining, Elif
Batuman điểm cuốn Triết học trong thời nhiễu nhương [Philosophy in
Turbulent
Times]: Canguilhem, Sartre, Foucault, Althusser, Deleuze, Derrida,
tác giả
Elisabeth Roudinesco, người dịch William McCuaig. Columbia.
Người điểm sách than thở, đọc, cảm thấy nó giống như một cuốn sổ cái,
đầy những
entries dành cho những con người biến thành những sự vật [a vast ledger
full of
entries for ‘people who have become things'], và đưa ra đề nghị, có lẽ
đã đến
lúc, nên có một thứ triết gia, phải chọn giữa "làm chuyện triết" hay
"chiến đấu chống bất công", và đây là một tự do nhức nhối, đúng như
chức năng của triết gia. Và những triết gia Mác xít nên hiểu rõ hơn bất
cứ một
ai, thời gian không đi lùi lại, và lập luận, “Những kẻ không hiểu quá
khứ sẽ bị
kết án lập lại nó”, nó dậy chúng ta một điều, phải tự giải phóng mình
ra khỏi
lịch sử… Thật lầm lẫn và nguy hiểm khi tin tưởng, nhà thương bệnh viện
thì cũng
giống như trại cải tạo…
Ui chao, tới bi giờ, Gấu mới hiểu ra tại làm sao mấy nhà ly khai thường
bị tống
vô nhà thương tâm thần!
Triết gia phục vụ chúng ta tốt hơn, khi dậy chúng ta viết lại tử vi mỗi
ngày.
[The philosophers serve us better by teaching us to rewrite our
horoscopes day
by day]
*
Nhưng, cái ý nghĩ viết tử vi của mình từng ngày, theo như bài viết cho
biết, là
của Umberto Eco, trong Foucault’s Pendulum:
“Vào Đại học một hay hai năm trước năm 1968 thì giống
như được nhận vô
trường võ bị Saint Cyr vào năm 1793: Bạn cảm thấy ngày sinh của bạn sai
lầm
[your birthday was wrong]… Bạn luôn sinh ra dưới một dấu hiệu sai
[wrong sign],
và để sống thế giới này một cách đàng hoàng, bạn phải viết lại tử vi
của bạn
mỗi ngày."
"Foucault’s Pendulum là một câu chuyện ngụ ngôn, a cautionary
tale,
về tay biên tập gặp chuyện không may, là, 11 tuổi vào năm 1943: Quá trẻ
để
chiến đấu trong lực lượng Kháng chiến, Resistance, quá già để cảm thấy
mình như
là một tên hèn nhát….
Gấu cũng muốn viết lại tử vi mỗi ngày, tính từ ngày 16 Tháng Tám năm
1966,
[thay vì 1968, Mậu Thân…] “vào đúng lúc chàng gặp tai nạn, bị thương
nặng, suýt
chết, sau khi thoát chết, ra khỏi nhà thương lần đầu tiên, vị bác sĩ
hẹn hai
tháng sau trở lại để tháo plâtre và giải phẫu thêm một lần nữa, vào
đúng dịp
sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần
thứ nhất,
nàng nói, "Je serai ta femme."
Tứ Khúc
Nhưng cái ý nghĩ, “viết lại tử vi mỗi ngày’ thì cũng phi lý như cõi văn
Kafka,
nếu chúng ta đọc, trong cùng số báo, bài viết “Tư duy kép”, “Double
Thought”, của Michael Wood, điểm cuốn Franz Kafka: The Office
Writings,
[Princeton, 404 trang].
Ý nghĩ kép?
Thí dụ câu Kafka trả lời Max Brod, khi được hỏi về hy vọng, và liệu có
hy vọng
nào ở bên ngoài thế giới mà chúng ta biết: Ngoài đó đầy cứu chuộc,
nhưng chẳng
có cái nào dành cho chúng ta. [“Plenty of hope”, “But not for us”].
Hay, “tớ chỉ muốn là hội viên của một câu lạc bộ nào đếch bao giờ thèm
nhận
tớ”.
Nhưng nói chuyện phi lý, thì lại khiến chúng ta liên tưởng đến một bài
viết
khác nữa, cũng cùng số báo, If Only Analogues… Ange Mlinko điểm
cuốn A
Blue Hand: The Beats in India, viết về tay thi sĩ Ginsberg
thuộc
trường phái Beats, khi tay này đến Ấn độ, và tại sao đến Ấn độ?
Bài viết cho biết, nhà bác học làm ra bom nguyên tử của Mẽo, Robert
Oppenheumer, biết tiếng Sanscrit. Và một câu trong Bhagavad Gita
bất
thình lình bật dậy, khi ông nhìn thấy vụ nổ bom nguyên tử đầu tiên tại
New
Mexico: “Giả như một ngàn mặt trời cùng dâng lên bầu trời cùng một lúc:
đó là
niềm vinh quang của cái gọi là Bóng Dáng Của Thượng Đế Vô Cùng [such is
the
glory of the Shape of the Infinite God].
Nhưng, nhà thơ Ginsberg, cũng đọc đoạn đó, trong Bhagavad Gita,
tại
Garjeering vào năm 1962, thì lại nghĩ đến một điều khác: những bánh xe
mầu sắc
rực rỡ của viễn tưởng: Cái đám mây khổng lồ hình giống như một cái nấm
hà cớ
làm sao lại nối kết hai phát minh khủng khiếp nhất thời đại vào lúc đó,
là bom
nguyên tử và những viên thuốc LSD?
*
Nếu chúng ta đọc Kafka, và chỉ coi đây là một lối nói, viết ngược ngạo,
thì
thật quá sai lầm. Gấu có lần đã giải thích truyện ngắn Làng Kế Bên,
bằng
một thí dụ hiển nhiên, về một anh bạn, cả đời mê văn chương, chỉ cần
ngồi xuống
bàn, là viết, là thành nhà văn, là thành triết gia, mà, lần nào như lần
đó, đều
tặc lưỡi, lát nữa, tí nữa.. Thế rồi Thần Chết đến, mà vẫn còn thấy anh
đang tặc
lưỡi, lát nữa, tí nữa...
Người
viết có một
anh bạn, mê văn chương. Mê lắm, nhưng cứ nay lần, mai lữa, vì còn nhiều
việc
phải làm. Nào lo cho xong cái nhà, kiếm mấy chân hụi cho bà xã để dành
tiền lo
cho xấp nhỏ… tới lúc rảnh rang, tính viết văn, thì phát giác ung thư đã
ăn tới
tận cổ họng. Văn chương, ở ngay "làng kế bên" (The
next village,
Kafka)* vậy mà cả
một cuộc đời dài như thế, hạnh phúc như thế, "vưỡn" chẳng nhín ra
được một tí thời giờ cần thiết cho nó!
* Làng kế bên.
Nội tôi thường nói: "Đời vắn chi đâu. Như nội đây, nhìn lại nó, thấy
đời như
co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như chuyện này: bỏ qua
chuyện
tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm rong ruổi sang
làng kế
bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc như thế, cũng
không đủ
thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy."
Bản tiếng Anh: The next
village.
My grandfather used to say: "Life is astoundingly short. To me, looking
back over it, life seems so foreshortened that I scarcely understand,
for
instance, how a young man can decide to ride over to the
next village
without being afraid that –
not to mention accidents – even the span of a
normal
happy life may fall far short of time needed for such a journey".