Nguồn
Bài
viết này của nhà văn
Trung Trung Đỉnh hồi mới đăng lên suýt đã đưa tới một vụ kiện tụng. Dân
văn
chương, báo chí ai quan tâm hẳn còn nhớ. Tôi thì thấy TTĐ đã nhìn thơ
TĐK thuở
nhỏ khá tinh tường. Thế mà đã gần mười năm trôi qua!
Tôi có
ông anh là giáo viên
trường làng, từ khi đứng trên bục giảng, cho tới lúc đã về hưu hàng
chục năm
rồi, vẫn chỉ đau đáu có một mong muốn là làm thế nào trông thấy nhà thơ
Tố Hữu
và nhà thơ Trần Đăng Khoa thật, được một lần. Số là ông anh tôi cũng có
máu thơ
phú vẽ vời, thành thử mới có cái ước muốn được trông thấy thần tượng
của mình
đến như thế. Khổ, cả đời làm nghề nhà giáo, lại ở sâu tút lút trong một
làng
quê hẻo lánh, chỉ có sách giáo khoa văn học với lại nghe đài (mà đài là
chiếc
máy ga-len tự chế), cộng với thứ thông tin chủ yếu là lời đồn, chứ hồi
ấy làm
gì đã có mấy sách, với lại báo chí, truyền hình. Truyền hình đúng là
chưa thể
nghĩ tới. Sách truyện văn thơ thì lèo tèo, lúc nào nom ông anh tôi cũng
ngơ ngơ
ngác ngác vì khao khát thông tin, vì càng chịu khó "săn" tin càng chỉ
được nhận những thông tin thất thiệt, đôi khi chỉ do một tay "ếch" ba
hoa nào đó ngồi đáy giếng phán chuyện triều đình, nghe sướng tai, đã
niềm khao
khát, khiến những người thật thà như anh tôi tin sái cổ, thành thử làm
sao anh
biết được thiên hạ không chỉ có hai cha
con ông ấy, một "cây đa" với một "chú cuội thần đồng" trong
làng thơ Việt. Tất nhiên ông anh tôi cũng có biết thêm vài anh tài nữa,
chẳng
hạn như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính của
thời
trước, chứ còn các nhà thơ trẻ đương đại thì rõ ràng chỉ có Trần Đăng
Khoa là
nhất. Có lần mấy thầy giáo, bạn anh tôi tới nhà tôi chơi, họ đố nhau,
nếu bỗng
nhiên được trông thấy, được gặp mặt một vị nhà văn nhà thơ thì chọn ai?
Đa số
là Tố Hữu, tất nhiên. Cũng có người chẳng biết chọn ai. Riêng anh tôi
vẫn kiên
quyết thứ nhất là Trần Đăng Khoa, thứ nhì mới
tới Tố Hữu. Thời ấy anh tôi dám đặt Trần Đăng
Khoa lên trên Tố Hữu
là cả một vấn đề, không gàn dở thì cũng là tay liều mạng dám phạm
thượng xếp
thứ hạng ngược đời thế! Tiếng đồn ở làng tôi, tất nhiên là trong giới
sành điệu
văn thơ, có một tin ngấm ngầm rằng, Trần
Đăng Khoa còn dám sửa cả thơ Tố Hữu từ Đường ta rộng thênh thang tám
thước
thành Đường ta rộng thênh thang ta bước nữa là! Hồi ấy Trần Đăng Khoa
mới đâu
chín mười tuổi, lại đã được phong thần đồng, được toàn đảng toàn dân ca ngợi, đài báo tuyên truyền, thơ Trần Đăng
Khoa được cánh học sinh cấp hai, cấp ba như tôi (lớn hơn Khoa cỡ chừng
tám chín
mười tuổi) chép trong sổ tay, anh nào hóng được vài chuyện về thân thế
sự
nghiệp của "em bé làm thơ Trần Đăng Khoa " coi như là người tài giỏi,
là tay đáng nể trọng lắm. Chính ông anh tôi là tay hay có những nguồn
thông tin
giật gân về Trân Đăng Khoa và Tố Hữu nhất, vì anh là bạn thân với "chú
Tỷ" cán bộ phát hành báo chí dưới huyện. Chú Tỷ không những đã nhiều
lần
được gặp Trần Đăng Khoa với lại cả Tố Hữu mà còn được nghe họ nói
chuyện, thậm
chí còn "hỏi vặn" họ khi họ hỏi những người nghe xem có ai còn muốn
hỏi gì nữa không? Có lần đi họp trên huyện trên tỉnh về, anh tôi khoe:
- Tao
suýt nữa được gặp
trưởng ty văn hoá với nhà thơ Tố Hữu, ấy vậy mà lại sểnh toi mất cả mẻ
gặp cây
đa cây đề trong làng văn, chỉ vì nghe tin Trần Đăng Khoa về thăm thành
đoàn Hải
Phòng, nên tao và mấy thằng bạn mới bỏ hội nghị đến đấy. Đến đấy mới
biết Khoa
nó không tới được vì bận tiếp khách nước ngoài, khi trở lại hội nghị
thì ông
trưởng ty đã lôi Tố Hữu lên Thành ủy rồi!
Tôi hồi ấy cũng đã mười lăm mười bẩy tuổi, và
cũng là tay thích xem sách, hóng chuyện văn thơ, nhưng vẫn còn tồ tẹt
ngớ ngẩn
lắm, nên mới há mồm ra mà nghe, rồi nói phụ vào, vẻ luyến tiếc thay:
-
Thế
là "Cháo trứng
cũng hỏng, cháo lòng cũng trơ", ai bảo anh "đứng núi nọ trông núi kia" làm gì?
Cái
cú
sểnh mẻ cá to ấy, cho
mãi tới bây giơ vẫn là nỗi luyến tiếc lớn, không biết đến bao giờ phai
mờ được,
nếu như không có tôi là thằng em ruột của anh, sau ba mươi năm, bằng
chiếc xe
con bóng loáng của cơ quan, điệu được Trần Đăng Khoa và Trạng Lựu về
nhà cho
anh tôi chiêm ngưỡng. Phải mở ngoặc đơn ở chỗ này, vì anh tôi biết tôi
cùng cơ
quan với Trần Đăng Khoa và Lê Lựu nên lấy làm tự hào lắm, nhiều lần
thúc tôi
kéo các chú ấy về chơi. Sau tiểu thuyết "Thời xa vắng" Lê Lựu nổi
danh như cồn, lại được "cử đi Mỹ thuyết khách", tất nhiên là theo
cách nói của anh tôi. Khi Lê Lựu về nhà lại được "cử đi nói chuyện về
nước
Mỹ" khắp nơi, nhưng ở làng tôi thì chỉ được nghe băng catsete, thuê mỗi
tối bảy ngàn đồng. Sau khi nghe cái băng Lê Lựu kể những cuộc đối thoại
nảy lửa
của anh với các nhà văn, các học giả Mỹ, anh tôi khoái quá nên mới gọi
Lê Lựu
là Trạng Lựu. Cùng một lúc mà anh không những được trông thấy mà còn
được nắm
cả tay, cụng cả li, gắp cả thức ăn bỏ vào bát cho Trạng và cho Thần
Đồng thì
hỏi còn có hạnh phúc nào lớn hơn? Các cụ ta có câu: "Gần chùa gọi bụt
bằng
anh", cấm có sai. Thấy tôi quá suồng sã với Trạng Lựu, anh tôi phải gọi
tôi ra sau nhà chỉnh cho một trận. Khi chiều chúng tôi vừa về đến nhà,
anh tôi
hỏi tôi nên sắm món gì, tôi bảo canh cua đồng nấu với rau đay, mồng
tơi, và nếu
có thể thêm quả mướp, thêm bát cà pháo muối chua, thêm đĩa tôm kho mặn,
Trạng
và chú Khoa đều thích các món ấy. Anh
tôi mới đầu không nhất trí, ý anh là phải làm cỗ, phải thịt vài con gà,
thậm
chí mổ lợn, cho "quân" xuống ao đánh cá, nó mới ra cái thú đón khách
trọng tận trên Trung Ương về, mở mày mở mặt với làng với xã. Ấy thế mà
tôi lại
chỉ đưa ra cái thực đơn mỏng tèo, với những món ăn quê mùa đãi khách
sang bậc
nhất, thật không xứng với tấm thịnh tình của anh tôi, không xứng với
chú Kiểm
lái xe oai vệ như võ sĩ cùng chiếc xe con bóng nhoáng của chú đậu ở
trước sân
nhà. Mà anh tôi, kể cả chị dâu tôi cũng là trí thức, là giáo viên, ba
đời
chuyên nghề "bảo học", gia đình tôi được gọi là gia đình gia giáo,
thậm chí hiện anh còn đang được bà con coi là bậc trưởng lão ở làng,
nghĩa là
còn trên thằng Hồng em họ tôi giữ chức trưởng thôn, chứ đâu phải chỉ có
chân
đất mắt toét, như Trạng Lựu vừa mới nói với anh tôi rằng, chính Trạng,
chính cả
"thằng Khoa, thằng Đỉnh" cũng đều là một lũ nhà quê chân đất mắt toét
cả! Chao ôi, phải được xem Lê Lựu với Trần Đăng Khoa về ngồi trong mâm
cơm giữa
làng quê Bắc Bộ, mới thấy được sức mạnh tiềm tàng của cả hai con người
trông bề
ngoài ụt ịt, nhem nhuốc mà hoá ra sinh động đến mê mẩn lòng người, kể
cả người
nhà quê. Anh chị tôi hoàn toàn bị bất ngờ khi chén xong ba bát canh cua
rau đay
với lại cà pháo, không ai động đũa đến thịt gà, giò chả, hiến cho gia
đình tôi
nghe vài ba câu chuyện tầm phào, chưa ai kịp hiểu đầu cua tai nheo thế
nào thì
cả Trạng và Thần Đồng, hai nhà trí thức thần tượng của anh của chị, của
bao
nhiêu công chúng cần lao, lại hồn nhiên nằm lăn ngay
ra chiếu ăn giữa nhà thi nhau ngáy. Anh chị tôi nhắc
các cháu đụng bát, đụng đũa nhè nhẹ, đi
lại nhè nhẹ, với một thái độ hết sức cẩn trọng, khiến tôi và chú Kiểm
lái xe cứ
phải đánh mắt cho nhau cười mủm, rõ ra cái lối "bụt chùa nhà không
thiêng" thật...
*
Từ
ngày
quen biết Trần Đăng
Khoa tới nay, dễ có đến suýt soát hai chục năm rồi. Suýt soát hai chục
năm ấy,
kể cả lúc ở bên "Tây Nga" lẫn khi trở về
Hà Nội, Sài Gòn, về miền Trung, lên Tây Nguyên
vào làng đồng bào dân
tộc, rồi lẩn thẩn trong luỹ tre của làng quê Bắc bộ, lúc nào tôi cũng
thấy anh
"đánh" bộ quân phục không quân hàm quân hiệu, nhàu nhàu, âm ẩm, mông
mốc, chừng như suốt mấy chục năm qua nó không được giặt, nó không được
là ủi, nó
vẫn rùng rục cũ kỹ đậm đà bản sắc mồ hôi dầu như chính ông chủ có vóc
dáng
khoai tây của nó. Luôn luôn có ý thức về sự nổi tiếng của mình, nhưng
Trần Đăng
Khoa quyết không phải hạng người lập dị về phương diện trang phục.
Trang phục
đối với anh chỉ là một thứ vải tiện thể khoác lên người, che lấp đi cái
phần
cần che lấp. Ấy thế mà trong tủ áo của anh, (tất nhiên là hồi chưa vợ)
tôi thấy
có đến ba bộ comple, loại may đo đắt tiền hẳn hoi, của đáng tội, thỉnh
thoảng
Trần Đăng Khoa cũng có diện cái món này, nhưng nhìn anh trong cái món
ấy nó mới
khôi hài làm sao: Một củ khoai tây đóng vai con ốc bươu chính hiệu!
Chơi với
Trần Đăng Khoa mãi mà vẫn chẳng bao giờ lường được trong cái đâu hói
sớm kia
đang có những toan tính láu cá nào. Anh luôn luôn là một thằng bạn láu
cá. Nhờ
anh việc gì là anh sốt sắng nhận lời, nhưng cái việc ấy nhất định không
bao giờ
có trong đầu anh ngay sau khi lời hứa như đinh đóng cột, cái bắt tay
như sẵn
sàng sẻ nửa cơ ngơi, và nếu ta nhắc thêm lần nũa, y như rằng được nghe
anh
"tung ra" một câu thề độc, rất độc, cho kẻ sai lời hứa. Rồi anh quay
lưng, nhìn theo tấm lưng âm ẩm mồ hôi quân phục vì dầy cơ bắp quá mà
không cung
cấp đủ chiều dài để nó có thể cong cong xuống một chút, đang cắm cúi đi
kia,
đâu có biết là mình sẽ hố với hắn, nếu cứ đinh ninh rằng công chuyện mà
hắn
nhận giúp ta rồi sẽ tốt đẹp. Ta chợt thấy lòng ta dâng lên một tình cảm
buồn
thương, một nỗi buồn thương xa vắng chẳng thể nào cắt nghĩa được. Anh không có thói quen phải ngượng ngùng khi có
ai đó trách anh vì thất hứa. Sự thất hứa thường xuyên và lỗi hẹn thường
xuyên
không làm giảm uy tín của Trần Đăng Khoa đối với bạn bè. Bởi vì bạn bè,
ai đã
chơi với hắn thì đều phải coi chuyện đó là chuyện vặt, chuyện của thằng
Cuội
ngồi gốc cây... thơ, một cây thơ được ăn thứ nước giếng thơi của nền
văn hoá xa
xưa làng xã Việt. Một thứ thơ như ca dao, hò vè dân dã. Một thứ thơ
được bắt
nguồn từ câu chuyện kể:
Em thường rải cái nong
Ra gữa
sân ngồi học
Những
đêm có trăng mọc
Em chơi
cho đến khuya
Câu
chuyện về ông trăng nôm
na là thế này: Đêm nay đêm rằm, ai treo ông trăng cao thế, ông nhìn
chúng em và
ông khoe ông có cái mặt tròn. Đấy, một em bé tám tuổi bình thường, (tất
nhiên
phải sinh ra và lớn lên ở thôn quê Bắc bộ) thì cũng có thể kể được như
thế.
Nhưng đến ba khổ sau, khi vượt ra khỏi khuôn khổ của câu chuyện kể thì
không
phải chú bé nào cũng tả được.
Đúng là
tả:
Dưới sân em trông trăng
Có quả
thị thơm lừng
Nải
chuối tiêu thơm mát
Ông
trăng nhìn thấy xôi
Là ông
nhoẻn miệng cười
Áng
chừng ông thích lắm
Nhưng
đến cái câu cuối của
khổ này thì không còn là tả nữa, mà đó là cái nhìn, hay nói đúng hơn,
cái cảm
của thi sĩ. Ta không thể tin một chú bé tám tuổi mà lại có thể thốt
lên, tưởng
là bình thường, nhưng vì nó được dẫn dụ từ kể sang tả để rồi đưa ta tới
cái cảm
khác thường :
Trăng nở vàng như xôi
Xin bạn
cứ đọc lại từ đầu
toàn bộ khổ thơ, bạn sẽ thấy cái câu cuối ấy nó có ý nghĩa xuất thần,
vượt ra
khỏi câu chuyện được em bé khéo tả thế nào.
Ở khổ
ba, khổ bốn cũng tương
tự như vậy.
Tôi
không có ý định làm cái
việc phân tích thơ Trần Đăng Khoa, nhưng khổ nỗi, động đến anh ta tức
là động
đến thơ, nhất là thơ thời thơ ấu của anh. Nó vừa nôm na, trẻ con lại
vừa được
em khéo kể, khéo tả, khiến cái việc ấy, cái cảnh ấy ta chẳng lạ gì, vậy
mà rồi
ta lại cứ thấy lạ lùng thay cái cậu bé này...
Mưa
Sắp mưa
Sắp mưa
Những
con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít
tìm nơi
ẩn nấp
Ông trời
Mặc
áo
giáp đen
Ra trận
Muôn
nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành
quân
Đầy
đường
Lá khô
Gió cuốn
Bụi bay
Cuồn
cuộn
Cỏ gà
rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng
bưởi
Du dưa
Bế lũ
con
Đầu tròn
Trọc lóc
Chớp
Rạch
ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé
xuống sân
Khanh
khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn
mùng tơi
Nhảy múa
Mưa
Mưa
ù ù như
xay lúa
Lộp bộp
Lộp
bộp...
Rơi
Rơi...
Đất
trời mù trắng nước
Mưa
chéo mặt sân
Sủi
bọt
Cóc
nhảy chồm chồm
Chó sủa
Cây lá
hả hê
Bố em
đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả
trời mưa...
l967
Tôi
cố
tình chép hết bài thơ
này ra đây để minh chứng cho nhận xét của mình rằng thơ thời thơ ấu của
Trần
Đăng Khoa bao giờ cũng bắt đầu bằng câu chuyện kể, rồi tả, rồi bỗng
dưng xuất
thần. Năng lực tả cảnh thôn quê của Trần Đăng Khoa qua bài "Mưa" thần
kỳ này không có gì đặc biệt, mà sao nó cứ luẩn quẩn với ta, mới mãi với
ta, đọc
lên sao nó cứ xối thẳng vào cảm xúc của ta, ký ức của ta, tạo nên trong
ta một
bức tranh quê truyền thống, một bức tranh quê đặc sệt quê mùa mà sao
vẫn thanh
cao, huyền diệu. "Đánh Thần Hạn" cũng là một bài đặc sắc chất phóng
túng của thơ Trần Đăng Khoa. Tôi không đánh giá cao những bài lục bát
thời ấy
của anh. Thơ lục bát thời thơ ấu của Trần Đăng Khoa bộc lộ một lối tư
duy dễ
dãi bình dân thôn dã, gần với ca dao, gần với lời cho các làn điệu chèo
hơn là
thơ:
Tay
em cầm một cành đào
Ngày
mồng một tết chúng em
vào thăm anh
Các anh
ở giữa đồng xanh
Giơ tay
ra đón, các anh cũng
cười
Cành đào em tặng rất tươi
Thấy
các anh khoẻ, các anh cười, em yêu
Ngay
cả
bài "Đêm Côn
Sơn", một bài được nhiều nhà bình luận đánh giá cao, thì theo tôi đọc
lên
vẫn bị chất ca dao hò vè lấn át, mặc dù có cái câu rất độc: "Tiếng rơi
rất
mỏng như là rơi nghiêng". Quả thật,
tôi thấy cái câu ấy vẫn không đủ sức dắt nổi toàn bài ra khỏi miền ca
dao thôn
dã. Thơ lục bát đã làm nhiều nhà thơ lẫy lừng của ta sa lầy vào cõi
trần tục
nôm na của ca dao hò vè, nó là cái bẫy, là bãi chiến trường thử lửa đối
với tài
năng. Vượt qua cái hơi hướng của ca dao hò vè để đến được với cõi
thiêng của nó
thật gian lao khổ luyện, luyện đến khi không còn thấy cái sự luyện ấy
nữa, mới
thành thơ được. Thật tình tôi chỉ thấy có nhà thơ Huy Cận (thời "Lửa
Thiêng")
là người đến được với nó một cách tự do, thoải mái . Nhưng cũng chính
Huy Cận
là người sa lầy một cách thảm hại không
tài nào hiểu được ở những bài sau này.
Ta Ka Nô! Ta Ka Nô!
Anh
đi
chụp ảnh quân thù bắn
anh
Anh là
cờ đỏ long lanh
Anh là
ánh sáng trong lành
nên chi
Kẻ thù
nó bắn anh khi
Tay câm máy ảnh đang ghi nắng chiều.
Quả
tình, đọc xong ta không
còn lời nào để bình thêm được nữa!
*
Thằng
Cuội trong dân gian
không phải là thằng Cuội xấu, mặc dù chú ta cũng mắc đủ thứ tội nợ, cái
tội nợ
to nhất vẫn là thói cuội, thói đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Hình
tượng
thằng Cuội là điển hình của anh nông dân láu vặt nhưng chẳng bao giờ
làm nên
tội danh, có khó chịu, có ghét anh ta thì cũng thế, cũng chỉ gây nên nỗi bất bình trong chốc lát, rồi thôi, rồi
đâu lại hoàn đấy, thành thử Cuội vẫn hoàn Cuội và ta lại không thể rút
kinh
nghiệm được, lần sau lại tin hắn, lại bị mắc lỡm bởi cái lối thật thà
bằng cha
mách qué của hắn. Tóm lại giận thì giận, mà thương càng thương. Hình
như trong
cuộc sống dân gian của người Việt cư trú ở châu thổ sông Hồng không thể
thiếu
được sự hiện diện của thằng Cuội. Không có Cuội thì buồn mà có Cuội thì
nhiều
khi cuộc sống bị đảo lộn. đến sôi máu, cáu tiết, giận điên lên được. Ấy
vậy mà
"Cuội Khoa" đây còn được lên thành phố, được ra cả nước ngoài tham
quan, học hỏi, điều tốt Cuội học được nhiều, nhưng cái chất cuội trong
con
người anh ta không cách gì gột rửa được, nhiều khi thấy nó đậm nhạt
khác nhau,
nhưng cái cốt lõi của nó thì như các cụ nói, nó đã thành tật. Làm cái
gì mà
không cuội một tí là y như rằng nó cứ bứt rứt trong lòng. Hề hề, cuội
cuội làm
cho cuộc sống tươi lên, nhưng nếu quá đi thì nó lại thành ra thói
tật.Cái giận
của bạn bè đối với Trần Đăng Khoa chính là cái giận ấy. Một biên tập
viên ở một
tòa báo chưa có kinh nghiệm chơi với Trần Đăng Khoa, sau khi đặt được
anh viết
cho bài "làm cái đinh" cho số
báo về khoe với Tổng biên tập và cả cơ quan, đến ngày ấy là "Khoa đã
hứa
là đem đến tận nơi ". Có người khuyên anh ta là nếu đã đặt thì phải
thúc,
phải bám chặt lấy hắn như bà Định bám "thắt lưng địch", may ra mới
lấy được bài. Mà chắc chắn là bài hay, bài làm cái "đinh" được. Anh
bạn phóng viên nọ tin vào lời hứa, tin vào cái bắt tay "sẻ nửa cơ
ngơi" của Trần Đăng Khoa, tin vào câu thề độc "làm chó ăn cứt cho con
ông nếu tôi sai hẹn" nên đến ngày giờ hen, cứ đi ra đi vào hóng đợi.
Mãi
không thấy Trần Đăng Khoa đến. Anh ra quán giải khát trước cơ quan chờ
cho bớt
căng thẳng. Chờ hàng tiếng nữa vẫn không thấy. Một chú bé bán báo đi
ngang qua,
tiếng rao: "Alô! Báo mới đây! Có tin mới Trần Đăng Khoa đối thoại với
lão
Chộp, người bắt sống viên đại sứ quán Mỹ
tại Việt Nam
đây!" khiến anh chồm tới níu vai chú bé bán báo lại, ấn tiền vào tay
chú,
giật lấy tờ An Ninh Thế Giới. miệng lẩm bẩm: "Thằng
đểu! Thằng mất dạy! Nó đã hứa, đã thề với
mình...".
Té
ra
sự thể là thế này: Hai
ba hôm trước gì đó, Trần Đăng Khoa đã viết xong bài cho anh bạn phóng
viên nọ,
theo yêu cầu hẳn hoi. Trên đường đem bài đến đưa trước hẹn, tình cờ gặp
Hữu Ước
dọc đường, Hữu Ước hỏi có gì mới đưa đây đăng ngay. Khoa ta quên phắt
lời thề
với anh phóng viên nọ, thò tay trong túi, móc luôn cái bài lẽ ra đem
nộp kia,
đưa cho Hữu Ước. Hữu Ước phải hỏi lại một câu đại loại thế này: "Ê
Cuội,
bài này chưa in đâu thật chứ?" - "Chưa. Tôi thề với ông.". Thề
bồi của Cuội là cái đinh! Nhưng với tính nhanh nhạy của nghề làm báo,
lại thuộc
tính bạn nên Hữu Ước đem về đọc ngay, cho in ngay.
Anh
bạn
phóng viên kia đành
phải "trám" bài khác vào cái trang dành cho lão Chộp bị chộp hụt! Còn
Trần Đăng Khoa thì vẫn coi đó là chuyện bình thường, chuyện đơn giản.
Đúng là
"đơn giản tôi là Trần Đăng Khoa", vậy thôi.
*
Có
ba
người trong đoạn đời làm
thơ thời niên thiếu của Trần Đăng Khoa
tạo nên ảnh hưởng trực tiếp đến thi pháp của em. (Tôi gọi "em" đây là
em Khoa thời bấy giờ). Và cả của anh, nhà thơ Trần Đăng Khoa bây giờ.
Đó là mẹ,
gồm cả quê hương với góc sân và khoảng trời nhà em. Đó là Xuân Diệu thi
sĩ và
bạn bè văn thơ. Người thứ ba, ấy là Tố Hữu. Tố Hữu vừa là nhà thơ vừa
là nhà
chính trị, nhà quản lý văn nghệ.
Có thể
nói tập thơ xuất sắc
nhất của Trần Đăng Khoa cho tới bây giờ, vẫn là tập "Góc sân và khoảng
trời". Sau này anh tập hợp tất cả thơ thời
niên thiếu lại thành tập "Thơ tuổi ấu thơ". Nó
được làm
ra hồn nhiên trong một không gian cực kỳ lành mạnh và trong trẻo. Chỉ
có góc
sân và khoảng trời quê hương, và mẹ, hay nói chính xác hơn là chỉ có
trong vòng
tay của mẹ hiền, tài năng của chú bé ấy mới phát lộ một cách tự nhiên
như lúa
như khoai trên đồng đất quê nhà những mùa vụ bội thu. Nó chính là vẻ
đẹp dân
giã vừa rất đơn giản lại vừa huyền diệu.
Con bướm vàng
Con
bướm vàng
Bay nhẹ
nhàng
Bên bờ
cỏ
Em
thích quá
Em đuổi
theo
Con
bướm vàng
nó vỗ
cánh
Vút lên
cao
Em nhìn
theo
Con
bướm vàng
Con
bướm vàng...
Chẳng
có gì nhiều, ngoài một
em bé và con bướm vàng, bên bờ cỏ, không nhắc gì tới cánh đồng nhưng
sao ta cứ
thấy một cánh đồng ngát hương hoa. Không thể đơn giản hơn và cũng không
thể
huyền diệu hơn khi tuổi thơ của ta được đầm mình trong hoa thơm cỏ lạ
nơi đồng
nội quê mình.
Thơ
tuổi thơ của Trần Đăng
Khoa ngộ nghĩnh, cái ngộ nghĩnh mang bản sắc của những bài hát đồng dao:
Đã ngủ rồi hả trầu?
Tao đã
đi ngủ đâu
Mà trầu
mày đã ngủ...
Hay:
Đoàn người bước lên lưng Cua
Tay cầm cào cỏ
Răng bừa
Chiêng
dồn, trống thúc
áo quần
rách bươm
Phấp
phới
Người
trẻ đứng trên
Người
già đứng dưới
Bạn nhỏ
đứng giữa đôi càng
...
Rồi :
Hay nói ầm ĩ
Là con
vịt bầu
Hay hỏi
đâu đâu
Là con
chó vện....
Và
đây nữa:
Ò...ó...o...
Ò...ó...o...
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục
quả na
Mở mắt
Tròn xoe
...
Và nữa:
-Than ơi!
Bạn từ
đâu ra
Mà bạn
đen thế?
-Tôi từ
đáy bể
Mắt tôi
có ngọc trai
...
Sự
trưởng thành trong mỗi câu
thơ, trong mỗi bài thơ, kể cả ý tưởng lẫn cấu tứ, sáng dần lên, chững
chạc dần
lên, vừa giữ được bản năng gốc chân quê hồn nhiên trong sáng, lại vừa
lịch lãm
diệu nghệ. Đó là một bước tiến mới vô cùng quan trọng, bởi tự nó khẳng
định
được chân tài và khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn, ấy là
những bài
thơ sau khi em Khoa đã tiếp xúc với văn đàn mà người dẫn dắt đáng yêu
nhất,
đáng trân trọng nhất phải kể đến Xuân Diệu. Xuân Diệu như là người mở
cổng cho
Trần Đăng Khoa bước vào Ngôi Nhà Thơ. Hơn thế, ông là hướng dẫn viên du
lịch,
dẫn chú bé nhà quê tới Tao Đàn và giới thiệu chú với văn nhân thi sĩ,
đồng thời
giới thiệu họ cho chú biết thế nào là Vườn Thơ, thế nào là Rừng Thơ,
thế nào là
Người Thơ...
Thơ
Trần Đăng Khoa ở thời
điểm này trở nên thơ hơn, không còn phải kể lể, không còn phải tả cảnh
tả người
mà vẫn chở được cái tình quê, cái hồn quê vốn dĩ rất gần với thơ, nhưng
nếu
không có những cuộc tiếp xúc mới mẻ với các bậc trưởng lão trong làng
Thơ làng
Văn, hẳn chú bé Khoa vẫn chỉ là chú bé Em kể chuyện này mà thôi.
Hạt gạo làng ta
Có vị
phù sa
Của
sông Kinh Thầy
Có
hương sen thơm
Trong
hồ nước đầy
Có lời
mẹ hát
Ngọt
bùi đắng cay...
Hạt gạo
làng ta
Có bão
tháng bảy
Có mưa
tháng ba
Giọt mồ
hôi sa
Những
trưa tháng sáu
Nước
như ai nấu
Chết cả
cá cờ
Cua
ngoi lên bờ
Mẹ em
xuống cấy
...
Đúng
như sự vận động thông
thường của cuộc sống. Những cuộc tiếp xúc không bao giờ dừng lại nếu
như sự
phát triển của thơ Trần Đăng Khoa không muốn dừng lại. Hay nói đúng
hơn, Trần
Đăng Khoa từ tấm bé, vừa mới phát lộ tài năng là đã chìm ngập trong một
không
gian lộng lẫy bởi những cuộc tiếp xúc đầy hào quang cộng thêm âm vang
của tiếng
đồn và sự truyền tụng. Chú bé không đủ sức chống đỡ, nhưng bằng bản
năng dân
giã, bằng tiềm tàng của sức mạnh hồn nhiên mà nền văn hoá làng xã đã
cho phép
em sống chung với bão lũ, tự mình bươn chải với tiếng tăm của mình! Nếu
ví sự
ảnh hưởng của Xuân Diệu đối với Trần Đăng Khoa như vẻ đẹp thuần khiết
của hương
hoa đồng nội gặp sự chăm chút, tỉa tót của nhà nghệ nhân khi cắm hoa và
cả khi
đặt hoa trong bối cảnh chung của ngôi nhà nghệ thuật thì sụ ảnh hưởng
của Tố
Hữu lại có một vị thế vô cùng trọng đại. Bản thân thơ của Tố Hữu và ảnh
hưởng
của ông trong đời sống tinh thần của toàn Đảng, toàn dân thời ấy có một
sức
mạnh bao trùm.
Không
phải ngẫu nhiên chú bé
làm bài "Hạt gạo làng ta" lại đề kính tặng chú Xuân Diệu . Bài
"Nửa đêm tỉnh giấc" đề kính
tặng chú Huy Cận. Còn bài "Ò ó
o..." thì kính tặng chú Tô Hoài. Chỉ riêng Tố Hữu là Trần Đăng Khoa lấy
luôn đầu đề bài thơ một cách trang trọng là "Kính tặng chú Tố Hữu"
...
Bây chừ
đất nước trong tay
"Dẫu
chưa toàn vẹn đã
bay cờ hồng"
Chú
ngồi dặn cháu trong phòng
Ôi lòng
chú cũng như lòng mẹ
cha
...
Thơ Tố
Hữu và cái bóng của
ông đã trùm phủ lên chú bé và tài năng thơ mới phát lộ của chú. Cho mãi
tới tận
bây giờ, Trần Đăng Khoa đã nhiều phen vẫy vùng để vượt ra khỏi vùng ảnh
hưởng,
nhưng có lẽ cũng phải tới những năm gần đây điều ấy mới diễn ra ở tập
thơ
"Bên cửa sổ máy bay"(l985). Chứ còn trước đó anh vẫn chưa thoát ra
khỏi tần sóng quá mạnh với lực hút chừng như không lúc nào giảm sút của
ông.
Đây, bài thơ hồi Trần Đăng Khoa làm năm 1969 với tựa đề "Đất trời sáng
lắm
hôm nay"
Bác ơi! Cháu đến đây rồi
Ba Đình
phượng đỏ một trời tiếng
ve
Trackback
URL:
http://www.vnweblogs.com/trackback.php?id=121472 (Trần Đăng Khoa thiếu
nhi)
Cháu nghe Hà Nội vào hè
Hồ Gươm
nước biếc, bốn bề hoa
tươi
Sang
năm Bác tám mươi rồi
Bác ơi!
Bác thấy trong người
khoẻ không?...
Nếu
Trần Đăng Khoa sinh năm
l956 thì năm làm bài thơ này anh 13 tuổi. Còn nếu anh sinh năm 1958 thì
mới
mười một tuổi. Một chú bé mười một, mười ba tuổi viết bài thơ về lãnh
tụ
...tràn ngập âm hưởng Tố Hữu.
Và:
Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời
Là Tổ
Quốc đang một còn, một
mất...
*
Tôi đã
từng nhiều lần không
tin cái anh bạn đang ngồi nói chuyện với mình đây lại là do chú bé làm
thơ Trần
Đăng Khoa lớn lên mà thành. Những bài thơ ấy với con người này sao
chẳng thấy
tương xứng với nhau chút nào. Bản thân sự tương xứng ấy không liên can
gì tới
hình thức nhan sắc bề ngoài, nhưng ít ra nó cũng có liên can. Tôi ngờ
rằng sau
khi làm được một mớ thơ, nói theo cách nói của người nhà quê, thấy con
mình nổi
tiếng quá khiến bà mẹ lo lắng. Cái cách lo lắng đề phòng của người nhà
quê cũng
dân giã, bình thường, ấy là lo người ta lấy mất con mình, nên đem nó
dấu vào
trong bồ thóc như dấu củ khoai củ ráy. Sự thể không đơn giản thế bởi
đất nước
có chiến tranh. Gà mái mất con vì bom đạn thù, nó còn điên dại lồng lên
đi tìm,
như trong một bài thơ khá hay của Trần Đăng Khoa đã kể, huống chi bà mẹ
đẻ ra
được chú hài nhi người ta gọi là Thần Đồng! Khiếp lắm! Thôi thì dấu
trong rương
trong hòm không xong đành phải bày trò đánh tráo. Thằng anh con bác Cả
hơn
thằng em hai tuổi vốn tính cũng láu lỉnh thông minh, lại muốn bay nhảy
nên cho
nó thế vào chân em , vừa được tiếng vừa được miếng, lại giữ được con,
lại lo
được cho cháu! Thế là nghị quyết gia đình được đưa ra bàn bạc giữa hai
nhà. Hai
nhà nhất trí. Cái anh chàng Trần Đăng Khoa sinh năm 1956 chính là Trần
Đăng
Khoa bây giờ. Còn em bé làm thơ Trần Đăng Khoa hồi ấy (sinh năm l958)
đã thành
ông nội, ông ngoại, con đàn cháu đống ở làng. Từ ngày có người anh ra
đi thay
cho mình, "Khoa thật" trở nên buồn bã không thơ phú văn chương nữa.
(Tất nhiên anh ta phải mang cái tên của ông anh họ). Còn "Khoa anh"
thì lại cứ tưởng mình là thiên tài, là Trần Đăng Khoa thật, thành thử
suốt ngày
lo trau dồi văn thơ, chữ nghĩa, té ra anh ta cũng là tay có khiếu, sáng
tác
được khá nhiều thơ hay, được bộ đội cho đi học sĩ quan rồi cho đi vào
thực tế
đời sống, làm cán bộ ở Hải Quân, rồi lại đi học trường viết văn Nguyễn
Du, hết
Nguyễn Du tiếp tục sang Liên Xô học trường viết văn lớn nhất thế giới,
ngôi
trường mang tên văn hào Gooc-Ky... Sau bẩy năm du học ra trường về
nước, đã có
cơ quan văn học lớn nhất trong quân đội chờ sẵn để tiếp nhận.
Tôi đã
đem câu chuyện
"Cuội"này của tôi ra kể cho Trần Đăng Khoa nghe, nghe thấy có lý nên
anh ta mới ậm ờ cho qua. Kết quả bao nhiêu năm đảng và quân đội chăm lo
cho
nhân tài, quả được anh đền đáp không đến nỗi nào, bằng những tập thơ
tập văn
sau này, với những bài thơ những câu chuyện về lính đảo và đặc biệt tập
sách
"Chân dung và đối thoại" của anh gần đây được những người hâm mộ cổ
vũ nhiệt liệt, và cả những người không đồng ý với anh tranh cãi kịch
liệt. Cái
kịch liệt ấy tạo nên một không khí mới cho văn đàn tẻ nhạt nhiều năm
qua. Mà
thực chất bản thân những điều khiến nhiều người tranh cãi kịch liệt ấy
cũng chỉ xoay quanh mấy trò xiếc của anh
chàng
Cuội ngồi gốc cây... thơ, được Trần Đăng Khoa dựng lên. Âu đó cũng là
một sự
đóng góp rất đáng kể cho đời sống văn nghệ vậy.
Tháng 9
năm 2000