*
Ghi



















Vụ « Toà Khâm »
TẠI ANH hay TẠI Ả ?

Chỉ nội cái tít không thôi, là đã lộ ra tâm địa khốn nạn rồi. Trong bài viết, còn sử dụng những từ ngữ hình ảnh phải nói là vô lại, thí dụ:
…cần thời gian để hoa độc và cỏ dại biến khỏi 42 Nhà Chung.
… toà tổng giám mục chấm dứt sự lầm lẫn giữa tự do tôn giáo và phương pháp Chí Phèo.
Gấu không phải dân Ky Tô, mà cũng thấy tởm! NQT
*
« Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam ».
Nếu còn một chút sáng suốt, chắc TGM Kiệt cũng thấy ngay là mình hớ hênh, nói khích không phải chỗ.
[Trích]
Một TGM đại diện cho bao nhiêu giáo dân, nói chuyện với nhà nước, trong một sự kiện quan trọng như vậy, mà ‘hớ hênh, nói khích không phải chỗ’?
Nói khích? Đâu có phải mấy đứa vô lại, côn đồ, vô học nói chuyện với nhau mà có chuyện “nói khích” ở đây?
Cái nhục đó, nói vào dịp này, chứ nói vào dịp nào nữa?
Một người gác bỏ việc đời, chuyên lo thờ phụng Chúa, lo cho giáo dân, mà đành phải lôi chuyện nhục nhã ở cõi đời, cõi VC ra, để mà nói, đau đớn cỡ nào, ngoài cái nhục làm dân Mít?
Cả cái thư, có chỗ nào cho thấy vị TGM nói hớ hênh nói khích, tại sao đột nhiên có câu đó?
Nếu còn một chút sáng suốt? Mi "sáng suốt", khi đặt một cái tít anh/ ả, như thế? NQT
*
Vụ đụng độ giữa nhà nước VC và Ky Tô giáo, bất cứ một người dân Mít nào, Ky tô hay không Ky tô, nếu là người ‘sáng suốt’, là sẽ cố gắng tìm cho mình một mảnh đất dung hòa [một miếng ván trên mặt nước lụt, thí dụ]. Lôi cái tội từ thời tổ tông ra [Ky tô giáo theo Pháp, Việt gian, bán nước], lôi mấy ông mũi lõ chống Cộng điên cuồng ra…  thì chỉ có dân Mít là thua thôi, chứ không phải Ky tô giáo. Cái kiểu “ẩn dụ” hoa độc cỏ dại ở 42 Nhà Chung, là quá khốn nạn, vì biết rõ mảnh đất này bị nhà nước lấy làm vườn hoa, sau khi mấy anh VC Đỏ tính ăn cướp trắng trợn chia nhau không xong. Khi tâm địa không khá, thì viết ra bất cứ cái gì cũng khốn nạn. Đòi đất chỉ là cái cớ, để coi nhà nước đối xử với tôn giáo ra sao, nếu nói "không sáng suốt", thì đó chính là nhà nước. Bởi vì chỉ cần mời TGM tới, hai bên từ tốn nói chuyện, không phải chuyện đòi đất, trả đất, mà là tương lai của đạo và đời, thí dụ vậy, và tương lai của đất nước….
*
Cái giọng hằn học, cái tít anh hay ả, ẩn dụ hoa độc cỏ dại, cái kiểu bới lông tìm vết [Đặc biệt trong trường hợp Giáo hội Công giáo Việt Nam, thừa kế nhà cửa đất đai của Giáo hội thuộc địa vốn là địa chủ lớn nhất Việt Nam đầu thế kỉ XX (tất nhiên, ngày nay, Quân đội Nhân dân VN đã chiếm lĩnh vị trí không mấy vinh quang này). Điều này lại càng rõ ràng trong trường hợp khu đất ở phố Nhà Chung. Luận điểm của tổng giám mục Ngô Quang Kiệt (đất 42 Nhà Chung là sở hữu « có giấy tờ » làm bằng của Giáo hội từ trăm năm nay rồi) không vững vàng chút nào khi ta biết rằng trước khi giám mục Puginier, tên thực dân khét tiếng, giành được đất này, nó là sở hữu của chùa Báo Thiên. Nếu phải « trả lại » thì « trả lại » cho ai ?] (1) cho thấy, tay này rất thù dân Ky tô.
(1) Đức TGM chắc hẳn rất rành những dữ kiện trên, từ đó, suy ra, đòi đất chỉ là cái cớ. Có hai nguyên nhân, xa và gần, trong chuyện đòi đất.
-Gần, là sợ đất lọt vào tay tư bản Đỏ, chúng có thể sẽ cho xây một New Century thứ nhì tại nơi đây, ngay bên cạnh Nhà Thờ, tại sao không?
-Xa, đòi đất, coi thái độ nhà nước đối xử với Ky Tô giáo ra sao, từ đó mới nói chuyện đường dài, giữa đạo và đời.
*
... tay này rất thù dân Ky tô.

Không chỉ tay này.
Nhưng, do đọc ra hoa độc cỏ dại ở trong tim trong hồn của tay này, mà Gấu bỗng nhớ ra câu chuyện NTD dịch Trăm Năm Cô Đơn, vô tư đưa vô bản dịch “những tiếng chuông nhà thờ”, trong khi nguyên tác chẳng hề có, điều này gây thắc mắc cho Gấu một thời gian dài, mãi đến khi một anh bạn giải thích, đây là tiếng chuông nhà thờ hồi Tây đánh chiếm Việt Nam: Trong bất cứ một anh Mít nào cũng văng vẳng tiếng chuông nhà thờ như thế đó.
Bạn không tin ư? Cứ đọc ba cái thư trên BBC là thấy liền!
Không phải tự nhiên mà Đảng ta đối xử tàn nhẫn như thế với Ky Tô giáo. Cái thù một triệu người di cư, đa số là dân Ky tô, đến bây giờ vẫn thấy đau, vẫn chưa quên!
Thảm thực.
Ngay cả Văn Cao cũng không bỏ qua hình ảnh nhà thờ:
Hồng hà mênh mông…
Cuối sông giặc chiếm nhà thờ, đốt phá…
Chưa chắc, trong bụng ông Văn Cao đã nghĩ “giặc chiếm”!
[Xin lỗi, cường điệu tí chút cho dzui!]
*
Trăm Năm Cô Ðơn, tiểu thuyết của G. García Márquez, bản dịch của Nguyễn Trung Ðức, Phạm Ðình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng; Nguyễn Trung Ðức viết lời giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội (ấn bản 2000), trang 67 (chương thứ nhì, ngay sau chương mở đầu):
“Khi tên cướp biển Phranxít Ðrăc tấn công Riôcha ở thế kỷ XVI, bà tổ của Ucsula Igoaran quá kinh ngạc trước tiếng chuông nhà thờ inh ỏi đổ hồi và tiếng đại bác chát chúa nổ rền, đến mức quẫn trí ngồi vào một bếp than hồng. Những vết sẹo cháy đã làm bà cụ trở thành một người vợ ăn bám suốt đời. Cụ chỉ có thể nằm nghiêng một phía, dựa lưng trên những chiếc gối đệm, và đi đứng kỳ dị, bỏi thế chẳng bao giờ cụ đi ra ngoài trước con mắt mọi người. Cụ từ bỏ mọi sinh hoạt xã hội, vì bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ người mình phả ra mùi khét khó chịu. Ánh bình minh bắt gặp cụ ở ngoài sân. Cụ không dám ngủ bởi nằm mộng thấy bọn người Anh cùng với những con chó dữ tợn đã trèo qua cửa sổ phòng ngủ và làm cụ chết khiếp vì những cực hình ghê rợn bằng những thanh sắt nung đỏ.“
*
Về tiếng chuông báo động đổ hồi thì đồng ý với Nguyễn Quốc Trụ, trong "toque de rebato" không hề có nhà thờ.
Cuối cùng tôi xin nhắc Nguyễn Quốc Trụ rằng, đừng đưa mình lộn lại cái thời Pháp tấn công Nam Kỳ thì hay hơn. Ông cũng đành bất lực như đồng bào ông mà nhìn quê hương mất dần từng mảnh vào tay kẻ xâm lược mà thôi. Hay ông tin là dấy lên được một phong trào phản kháng? Gần hai mươi năm trôi qua, rồi Trung Kỳ rơi hẳn vào tay Pháp. Hai mươi năm, vì rất nhiều lí do phức hợp mà hàng triệu người Việt không đủ sức ngăn nổi Pháp. Nhưng có lẽ Nguyễn Quốc Trụ không để xảy ra cái cảnh như người Việt thuở ấy, không, chắc ông cứu được ‘địa linh nhân kiệt’. Hẳn là thế.
Đáp lời NQT

Tôi không có ý bàn về câu phát biểu của TGM Ngô Quang Kiệt, hay bàn về văn cảnh, ngữ cảnh bị các cơ quan truyền thông nhà nước bóp méo, trích dẫn xuyên tạc… Hoặc dư luận xoay chung quanh phát biểu này, kẻ nhấn từ « nhục nhã », người nhắm chữ « hộ chiếu » hay là phân tích các động tác « cầm » (lên), « ném » (xuống), « bỏ » (vào sau túi)… Tôi chỉ nhân dịp này mà nhắc đến một số chuyện vui nước ngoài, và trong giới hạn này (nghĩa là chuyện nước ngoài), tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Đỗ Kh.
*
Tất cả những trường hợp về nỗi buồn quốc tịch, mà Đỗ Kh nêu ra trong bài viết, đều khác hẳn nỗi nhục mà vị TGM Kiệt đã nói tới, trong lần gặp gỡ nhà nước.

Đa số, khi đọc, đều bị sốc, và đều cảm thấy bản thân mình bị đau, bị nhục, và chính vì lý do này, báo chí trong nước tách câu này ra khỏi bài viết, và cứ thế mà đánh, và do đó, cái tay Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, mới cho rằng, TGM nói hớ hênh, không còn một chút sáng suốt…
Thuốc đắng rã tật, Gấu này không tin là vị TGM không lường được hết những hậu quả câu nói của ông.
*
Gấu lại nhớ đến trường hợp xẩy ra cho Gấu.
Trong một bài viết về NHT, khi phải giải thích “vấn nạn”, tại sao ông nhà văn Miền Bắc lại làm nhục Nguyễn Huệ, vị anh hùng của dân tộc, khi gán cho ông vua võ biền này những câu nói, những hành vi chẳng khác một kẻ vô học, lần ra Bắc đuổi Mãn Thanh, thí dụ, sai người nhét cứt vào miệng sĩ phu Bắc Hà… và Gấu đã giải thích: Chỉ có cách đó thì mới làm cho đám sĩ phu Bắc Hà tỉnh ra được thôi.
Vị TGM, một cách nào đó, cũng đã làm như vậy.
Gấu nhớ là, một anh nhà văn ra đi từ Miền Bắc, khi đọc đoạn Gấu giải thích "cas" NHT, đã lắc đầu, nói, anh viết như vậy, ngay tôi cũng thấy đau. Còn NHT, khi Gấu về HN, gặp, và kể lại, đã giật mình: Anh viết như thế tụi nó làm thịt tôi mất!
*

Trên Hợp Lưu, 6/92, sau khi đọc Mùa Mưa Gai Sắc, của Trần Vũ, và Phẩm Tiết, của Nguyễn Huy Thiệp, Trương Vũ đã đặt câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ? "Hai truyện ngắn đó là những sáng tác phong phú, xuất sắc, cá biệt. Những sáng tác 'không' và 'không thể' "bôi nhọ anh hùng dân tộc". Người đọc tinh ý thừa sức thấy rõ điều đó. Chẳng những vậy, nhân vật được gọi tên là Nguyễn Huệ được xây dựng với những nét rất sắc, rất mạnh, và rất độc. Nhưng người đọc cũng 'táng đởm' vì những nét đó. Không vì đó là những nhân vật a-b-c của truyện, mà vì đó là một nhân vật có thật và có như mọi người được biết. Ở đây, người đọc không thấy được sự công bình cũng như không hiểu được sự gán ghép để có một cách hư cấu như vậy. Câu hỏi do đó, vẫn là: Tại sao phải là Nguyễn Huệ?"
Đụng vào một nhân vật lịch sử cỡ như Nguyễn Huệ, không phải chuyện chơi! Ngoài lý do như Trương Vũ đưa ra, "mà vì đó là một nhân vật có thật, và có như mọi người được biết", còn một lý do liên can đến cả một thời thơ ấu của mỗi con người. Joseph Brodsky, trong bài viết "Homage to Marcus Aurelius", kỷ niệm lần đầu ông tới Rome, pho tượng vị hoàng đế La Mã làm ông nhớ đến cô giáo dậy môn sử, và cùng với cô giáo, những âm thanh huyền hoặc Caesar, Augustus, Flavius... toàn những âm thanh có thể đánh thức quỉ sứ dưới địa ngục! Đó là lý do, theo ông, trẻ con mê môn sử. Một Nguyễn Huệ, áo bào còn đen kịt, sặc mùi thuốc súng, vào Thăng Long đúng ngày Tết, sông Hồng nghẹt xác giặc, đã ăn sâu vào bộ óc non nớt của chúng ta, không dễ gì bôi xoá. Và cái trách nhiệm "trồng người" không dễ dàng, khi cố tình xuyên tạc lịch sử. Cho dù vậy, đây là "nhiệm vụ" của nhà nước, không phải của nhà văn.
Theo chân C. Lévi-Strauss, người viết xin mượn ý tưởng của T. Tolstaya, để khai mở "huyền thoại" Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc. Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ. Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
Hình như có một tác giả ngoại quốc đã để những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong bài viết "Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu, anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia. Theo một nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ". Trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, tôi nghĩ, thực tại "thực" của ông, một "nhân sĩ Bắc Hà", và một trong những thực tại "mộng", của ông: Nguyễn Huệ. Có thể, theo ông Thiệp, cái cảnh Nguyễn Huệ "nhét" gì gì đó, rất cần cho sự sống lại của "tinh thần Bắc Hà", không phải theo kiểu, "chỉ còn có tôi" của Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc "tôi nhét điếu thuốc vào mồm tên giặc lái", của Nguyễn Tuân. Tại sao lại là Nguyễn Huệ?
Bởi vì còn bao nhiêu kẻ muốn bắt chước ông, "chỉ có một nửa": tới Thăng Long rồi ở lì lại. Phải chăng, chính vì vậy mà đã xẩy ra cơn xuất huyết não, hiện tượng chất xám thiên di vào Nam, hoặc ra hải ngoại, theo kiểu "cái cột đèn đi được nó cũng đi", hoặc, "Tôi ở đâu, văn chương Đức ở đó", của Thomas Mann, khi bỏ nước Đức qua Hoa Kỳ, hoặc "Nước Nga bây giờ ở ngoài nước Nga", của Solzhenitsyn, khi bị bắt bí, "Đi thì đi luôn, đừng trở về", mà nhà nước Xô viết đã từng "hù dọa", và đã thành công, với Pasternak.
Câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc, với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp? Trong bài viết, "Tác giả là cái gì?" (bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy, ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt của quá trình "cá nhân hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng, tri thức, văn chương, triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn sách, những bài viết/nói bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành những mục tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng ta, (và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài viết/nói (le discours), không phải là một sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta mới thực sự thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã thiêng liêng, và tin rằng, điều báng bổ có khi thật cần thiết...