Ghi
Dọn
I
1 2 3 4 5 6 7 8
II
1 2 3 4 5 6
|
Dọn
Công trình nghiên cứu dành
cho chương trình “Project Diaspora:
Study of the Vietnamese Overseas” của Trung
Tâm William Joiner
Center
thuộc viện Đại học Massachusetts, Boston, MA,
USA.
Ấn hành với sự đồng ý của tác
giả - Café Damàu
Vài lời thưa trước
Chủ đề nghiên cứu, tuy chỉ là
một phác thảo, nhưng tự nó mang tính chất của thể loại văn học sử (khác
với các
thể loại nghiên cứu văn học khác như lý luận văn học, phê bình văn
học…). Chủ
đề trước hết quan tâm đến những tiêu chuẩn nghệ thuật cần có của “văn”
(như giá
trị văn chương, giá trị tư tưởng) đồng thời cũng có tính “sử”, nghĩa là
đặt văn
chương trong bối cảnh của lịch sử, xem xét các tác động của lịch sử lên
những
biến chuyển trong văn chương hải ngoại.
Cơ cấu lý thuyết nghiên cứu
này vẫn bị phê phán là đặt văn chương vào vai trò thứ yếu của một công
cụ: văn
chương không tự nó hiện hữu, mà chỉ là một tư liệu, một công cụ để
chứng minh
cho cái gì khác với văn chương, như biến chuyển chính trị, như hậu quả
của
chiến tranh, như kinh nghiệm di dân. NMG
Thú
thực, Gấu đọc, chỉ mấy
dòng mở ra công trình nghiên cứu trên đây, là đã thấy nhức đầu rồi.
Theo
như Gấu hiểu, ý NMG muốn
nói, giản dị như vầy
Sau khi lấy mớ tiền của WJC,
phải trả bài. Và đây là bài trả của tôi. Một phác thảo, hay sơ thảo,
hay biểu
nhất lãm, hay tản mạn, hay tạp ghi.. văn
học hải ngoại, và mặc dù phác, sơ, tạp, tản... nhưng
được viết theo tinh thần văn học sử, [khác
kiểu viết, như lý luận,
phê bình văn học].
Và chú trọng đến văn nhiều
hơn sử
Kiểu viết này vẫn bị coi
thường…
How?
Nhưng,
đâu cần thưa trước?
Bởi vì những gì gì, "ngâm
cứu của tôi, tuy chỉ là một phác thảo nhưng tự nó...", hãy để cho người
đọc, đọc, và nhận ra.
Viết như thế, là bắt người
đọc phải đọc bài viết của mình, theo ý mình muốn.
Như thế thì đọc làm quái cho
mệt!
Vả chăng, giả như Gấu đọc, và chẳng thấy một tí văn học sử nào, thì sao?
Không
hiểu WJC trả bao nhiêu
tiền một bài, nhưng viết như thế này, đúng ra nên viết...
chùa!
Như Tin Văn, chuyên viết chùa!
Đúng là miễn cho xong một
show! [ý này của PNH]
*
Đề án chung do Trung tâm
William Joiner chủ trương: “Diễn trình (tái) xây dựng diện mạo và quê
hương của
người Việt ở nước ngoài” tự nó đã là một
nghiên cứu xã hội học di dân.
NMG
Cái này thì ghê quá!
Câu phán của NMG, nhằm xổ toẹt cái gọi là mảng lưu
vong của văn học hải ngoại.
Đâu có thua gì câu phán của VTH, này, liệu có cái gọi là văn học hải
ngoại?
Quái đản nhất, là, từ đề tài của WJC “Diễn trình (tái) xây dựng diện mạo và quê
hương của
người Việt ở nước ngoài”, suy ra, "tự nó đã là một
nghiên cứu xã hội học di dân" mới lại càng ghê!
Cả một nước, chứ không phải nửa nước, chạy VC, lao ra biển, chết như
rạ, đủ các kiểu chết, nhân loại thương tình, uỷ cho cơ quan Cao Uỷ Tị
Nạn nhận cho vô nước này nước nọ, mà bây giờ chỉ là di dân, thì đúng
là sỉ nhục những người đã ra tay cứu mình, cho mình một quê hương thứ
nhì.
Sỉ nhục cả thằng cha Gấu này, cứ khăng khăng tao là lưu vong đếch phải
di dân!
Bản thân NMG, cũng đã từng vượt biển, và nhờ
lượng bao dung của xứ người mà còn sống tới ngày nay, nhưng ông tự coi
ông là di dân, là quyền của ông.
Nhưng, ngược lại, một người ra đi từ Miền Bắc, theo diện di dân đàng
hoàng, vẫn có quyền tự coi mình là lưu vong, theo suy nghĩ, những gì
tao viết ở hải ngoại, có tính lưu vong, có tính đối kháng, ly khai, có
tham vọng đòi hỏi tự do dân chủ cho trong nước.
Ngay cả, ở trong nước, cũng vẫn có thứ văn chương lưu vong, khi người
viết nghĩ rằng, thứ mà họ đang viết ra, thuộc diện ngoài luồng.
*
There are so many different
kinds of literary exile. At random from memory, in roughly
chronological, non-evaluative
order: "Isaiah" (and in a very wide sense, all Jewish writers of the
Diaspora), Ovid, Virgil, Cavalcanti, Dante (from Florence under Charles
de
Valois), Petrarch (to Provence), Thibault de Champagne (to his new
kingdom of
Navarre), Charles d'Orleans (imprisoned by the English), Voltaire, Mme
de
Stael, Adam Mickiewicz, Shelley, Keats, Byron, Cyprian Norwid, Charles
Baudelaire (debts), Victor Hugo, Heinrich Heine, Oscar Wilde, Henry
James,
Joseph Conrad, Gabriele D'Annunzio (debts), W. B. Yeats, Edith Wharton,
Tristan
Tzara, Kurt Schwitters, T. S. Eliot, Ezra Pound, James Joyce, Gertrude
Stein,
Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway, H. D., Djuna Barnes, Henry Miller,
Radclyffe Hall, D. H. Lawrence, Max Beerbohm, Somerset Maugham, Stefan
Zweig,
Bertolt Brecht, Andre Breton, Christopher Isherwood, Aldous Huxley, W.
H.
Auden, Thomas Mann, Mallcolm Lowry, Witold Gombrowicz, Vladimir
Nabokov, Paul
Bowles, Jane Bowles, Samuel Beckett, Eugene Ionesco, Jorge Sempnin,
Luis
Cernuda, Milan Kundera, Aleksandr Solzhenitsyn, Harry Matthews, Halo
Calvino,
Anthony Burgess, Muriel Spark, and no doubt many others, all the way to
the
modern "foreigners" or "post-colonials" who write in
English or French today, from Kazuo
Ishiguro to Salman Rushdie, an
exile within an exile.
Clearly, this list alone
covers a great variety of exiles, from temporary (e.g., Hugo) to
permanent,
though the exile can't always know this; early (e.g., Ishiguro, who
came to England at
six from Nagasaki)
or en fin de carrière
(Wilde). But
the most obvious and commonly made distinction is between the following:
1. Involuntary exile, usually
political or punitive ("Isaiah," Ovid, Dante, Thibault, Charles
d'Orleans, Byron, Mickiewicz, and all the moderns such as Ionesco,
Sempnin,
Cernuda, Kundera, Solzhenitsyn, etc., alas). And these can be further
divided
into those exiled for their books or their behavior (Ovid, Byron, Mme
de StaeI,
Victor Hugo, Wilde, Solzhenitsyn) and those who as private persons fled
from
political conditions or war.
2. Voluntary exile, usually
called expatriation, itself for many more personal reasons: social,
economic,
sexual (e.g., Radclyffe Hall and the lesbian group in Paris
in the twenties), or simple preference (Beerbohm retired in Rapallo,
Ezra Pound choosing Italy).
Involuntary exiles may tend
to be unhappy, poor, bitter (like Gregory VII), nostalgic about the
society
left behind, self-righteous; voluntary exiles may tend to be happy,
comfortable,
satiric about the society left behind, self-righteous. But that is
obviously a
useless generalization, with too many exceptions on anyone feature, and
some,
like Byron (a sexual scandal but rich and noble) or Wilde (a sexual
scandal but
broken by prison and poverty) hover between the two, while Cyprian
Norwid,
though a voluntary exile, lived and died in Paris in abject poverty and
was
buried in a pauper's grave.
It seems to me that there are
more pertinent distinctions, which cut across the differences in causes
and
conditions. The first is formal and thematic, the second linguistic.
Christine
Brooke-Rose: Exul, in Exile and Creativity
Editor:
Susan Rubin Suleiman
Duke University Press Durham and London
1998
*
'Lẽ dĩ nhiên, một cách nào
đó, con đường từ St. Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng
một con
người với nghề nghiệp như tôi, ý niệm đường thẳng - con đường ngắn nhất
nối hai
điểm - đã mất hết sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.' (Joseph Brodsky, Diễn
văn
nhận Nobel văn chương)
Di dân, kẻ lưu đầy,
người xa
xứ, gã tị nạn, tay suốt đời lang thang, người của mọi nơi... ý nghĩa
những từ
cứ thế thay đổi, nhưng chúng đều chỉ một trạng thái chung: không (ở)
nhà, hoặc
đâu cũng là nhà; hai mặt của một đồng tiền. Trong hầu hết trường hợp,
nó có
nghĩa: có một khoảng cách với tiếng nói mẹ đẻ.
Hồi
ức thủng lỗ
*
“Project
Diaspora:
Study of
the Vietnamese Overseas”, khi sử dụng từ "Diaspora", WJC không có
ý định coi đây là vấn đề 'di dân' của người Việt, mà muốn nhắc đến thảm
họa bỏ nước ra đi, y hệt như hoàn cảnh lịch sử, từ đó, từ này xuất hiện
cùng với dân Do Thái, và cuộc lưu vong trải dài suốt lịch sử của họ,
theo Gấu.
Giả
như đám Mít bồi Mẽo ở WJC có được một chút liêm sỉ, chúng sẽ làm
như vầy:
Đặt điều kiện tiên quyết cho tất cả những công trình
nghiên cứu: Nằm trên cái nền là cuộc chiến Việt Nam với sự tham dự của
Yankee mũi lõ, và sau đó, là cuộc vượt biển tàn khốc, là một đất nước
băng hoại sau chiến thắng, sau thống nhất...
Từ tất cả những bi thương
đó, mà xây dựng ra diện mạo của dân Mít hải ngoại... đại khái
như thế.
[Vài nhời thưa trước là phải như thế!]
Nhưng,
đám Mít bồi Mẽo này chỉ là mấy tên Miền Nam bỏ chạy, bợ đít VC,
thành
thử chúng lái dự án theo ý của chúng, và mời đám nào vừa mũi chúng vô,
lãnh tiền của Mẽo, viết vừa ý VC.
"Bạn
ta", NMG, theo Gấu, cũng có cái gì lấn cấn với Miền Nam trước đây,
hoặc không vừa ý đám Chống Cộng điên cuồng, hoặc, hoặc, nên thay vì lưu
vong chuyển sang di dân, chắc thế?
*
'Any fool can make war. Peace
requires greater vision and courage'
Ronan
Bennett
Nhà
văn rẻ tiền nào cũng có thể, vừa ẵm tiền Mẽo vừa
bợ đít VC.
Giao
lưu hoà giải thứ thiệt đòi
tầm nhìn xa, và sự can trường.
*
Có
thằng nào viết được cái gì cho ra hồn
đâu, cứ "miễn xong một sô", là lỉnh mất!
*
In order to rebuild one's
life one has to be strong and an optimist. So we are very optimistic.
Our
optimism, indeed, is admirable, even if we say so ourselves. HANNAH
ARENDT,
"We Refugees".
Để xây dựng lại đời mình, bạn
phải mạnh mẽ và lạc quan. Như vậy, chúng ta đều rất lạc quan. Lạc quan
của chúng
ta thì thật đáng mến, ngay cả khi chúng ta lèm bèm giữa chúng ta, về
lạc quan.
HANNAH ARENDT: Chúng ta, Những người tị nạn
*
"Exile
is strangely
compelling to think about but terrible to experience”
Lưu
vong, nghĩ thì sướng mê
tơi, nhưng thử sống nó coi, mới biết khủng khiếp là dường nào. E. Said
*
Những đợt di cư đông đảo của
người Việt ra nước ngoài sau 30 tháng Tư 1975 là một biến cố lịch sử
chưa từng
xảy ra trong lịch sử Việt Nam.
Hơn thế nữa, không phải người
Việt Nam
nào cũng ra đi vì lý do chính trị. Biến cố lịch sử 1975 khiến nhiều
người bỏ
nước ra đi, một số người xem đó là thảm kịch, số khác lại coi là cơ hội
nghìn
năm một thuở.
Số
lượng người ra đi, các
động cơ đa dạng của quyết định ra đi đã khiến cho tập thể người Việt ở
hải
ngoại càng ngày càng giống với cộng đồng di dân người Hoa hơn là cộng
đồng di
dân người Nga, người Tiệp ở châu Âu. Trong vòng hơn hai mươi năm, di
dân Việt
đã biến đổi tâm trạng và sinh hoạt quá nhiều, sự biến đổi mà di dân Ái
Nhĩ Lan,
Ý, Hoa cần tới hơn trăm năm mới có.
Nguồn
NMG thay vì lưu vong, thì
thay bằng những từ như di cư, di tản... Một là do ông không phân biệt
được
sự khác biệt, hai là ông muốn đánh tráo từ, ba là do chính ông, trước
khác, giờ
khác...
Cuộc vượt biển sau 30 Tháng
Tư mà ông gọi là di cư thì quái đản quá.
Có thể ông nghĩ, những đợt
ODP sau này, làm sao gọi là lưu vong được. Nhưng theo Gấu vẫn là lưu
vong.
Theo cách ông suy nghĩ, những
đợt di dân từ Bắc vào Nam, lên vùng thượng du sau 1975 là di cư, là
điều hòa
dân số, là thay thế đám lưu vong, nhưng Gấu lại là coi đây là... ăn cướp, thì sao?
Tập thể hải ngoại hải ngoại
giống cộng đồng Hoa?
Cộng đồng Hoa làm gì có Lò
Cải Tạo, Ban Chấp Pháp, Công An Biên Phòng, Cá Lớn, Cá Bé, hải tặc Thái
Lan, thanh lọc, tị nạn chính trị... ? Người Hoa, cũng chu du khắp thế
giới, như Do Thái, nhưng có ai áp dụng từ Diaspora cho họ đâu?
Nếu đúng như NMG nhận định, thì WJC phải đổi tên Project Diaspora thành
Project Immigration, hay một từ nào đại khái như vậy chứ?
NQT
Biến cố lịch sử
1975 khiến nhiều người bỏ nước ra đi, một số người xem đó là thảm kịch,
số khác
lại coi là cơ hội nghìn năm một thuở. NMG
Một số người xem đó
là thảm kịch. Chỉ một số thôi sao?
Số
khác coi cơ hội
ngàn năm một thuở.
NMG
không đưa ra
một thí dụ, thành thử hơi khó hiểu. Ngàn năm một thưở là theo nghĩa
nào? Ai coi
đó là ngàn năm một thuở? Đám con cháu thế hệ thứ hai, thứ ba của đám
vượt biển,
bây giờ thành đạt nơi xứ người nhưng vẫn không quên nỗi đau chiến
tranh, cải tạo,
vượt biển, đất nước vẫn chưa thực sự có tự do dân chủ?
Ngàn năm một
thuở, dân Mít
có mặt khắp nơi trên thế giới?
Nếu thế thì để Hitler trả lời thay cho
Mít: Không
có Lò Thiêu sao có nhà nước Israel?
Hay
ngàn năm một
thưở, là đám con ông cháu cha VC đang du học hải ngoại? Dân chúng Miền
Bắc “ăn
theo” quy chế tị nạn CS khi bỏ nước ra đi?
Hay
đám du học Đông
Âu hiện đang được, thí dụ, BBC thâu dụng?
Phán
gì thí phán,
nhưng phải có thí dụ dẫn chứng. Đã phán tưới như thế, lại còn phán theo
kiểu
ngược ngạo, xốc óc, nghe nực quá.
Giả như muốn bợ nhà nước VC, thì cũng phải nói
làm sao cho nghe thuận tai!
*
Có vẻ như NMG bị dị ứng với từ lưu vong. Tất cả bài viết của ông đều
như muốn bác bỏ từ này.
Có ai muốn lưu vong đâu!
Suốt đời tôi không muốn làm nhà văn lưu vong, như một ông bạn quí của
Gấu đã khẳng định!
*
Có lần, nhân dư luận
đồn
thổi,
tại thủ đô tị nạn của dân Mít, ở Mẽo, là Gấu này “thù” NMG.
Và
Gấu đã phải lên tiếng, NMG
là người có ơn với Gấu này, vì nếu không có ông, là sẽ không có Gấu,
trên văn đàn
hải ngoại, qua sự xuất hiện của mục Tạp Ghi trên báo Văn Học của ông,
do Gấu phụ
trách.
Quả
có thế, nhưng không hẳn
như thế.
Thứ
nhất, Gấu viết cho NMG, và
được trả tiền nhuận bút, trong khi những người khác viết chùa, vì Gấu,
khi đó mới
qua, rất cần tiền, không thể viết chùa, và giả như viết chùa thì cũng
không thể
viết thường trực được. NMG thừa biết như thế.
Thứ
nhì, giả như tờ Văn Học của
một ông bạn quí của Gấu, thì chắc chắn ông này cũng đếch có trả tiền.
Có khi còn
đếch đăng bài!
Mày
viết chùa, nếu không đừng
viết, tao dù có dư tiền cũng đếch trả tiền nhuận bút, vì một lý do chắc
nịch:
Không
lẽ tao giúp cho mày “tái
sinh” ở hải ngoại?
Gấu
này biết ơn NMG
là ở cái điểm
đó. Ông tự tin ở tài của ông, vì ông có tài, và ông cần một người viết
như Gấu
cho tờ báo của ông, cho độc giả của ông.
Chính
vì thế, vì tôn trọng ông,
nên khi viết về ông, là Gấu viết thực tình, nặng tình. Nặng tình theo
nghĩa: Phạng
tới nơi tới chốn, đếch nể nang gì hết!
Và
còn theo nghĩa: Kẻ thù ta,
là bạn ta. [Đề tài Ngư Ông và Biển Cả]
Nhưng,
vì Gấu nhận NMG như là
người có ơn với Gấu, nên lại có dư luận, thằng cha Gấu vô ơn, NMG đối
xử với nó
như thế mà cứ nhè NMG mà chửi!
Gấu,
lần mới qua Cali, nghe được dư luận
này,
và buồn [cười] quá đi mất.
Nghe
qua một ông, ông này thì
quả là thù Gấu. Gấu đưa tay bắt tay, ông đếch thèm bắt tay, trong khi
đó, cầm cái
bình trà rót trà, run lẩy bẩy vì quá tức giận!
Có lẽ chẳng bao giờ NMG ngộ
ra một điều rằng, lưu vong chính là điều kiện cốt tử của văn chương.
Bạn Thế
Quân trong một bài trên Da Mầu, tưởng niệm
nhà thơ Mahmoud Darwish, chẳng đã
viết ra điều đó sao:
“Lưu vong phải được
hiểu xa
hơn khái niệm địa lý. Bạn vẫn có thể là một kẻ lưu vong ngay chính trên
quê
hương bạn, ngay chính trong nhà bạn, chính trong phòng bạn. Đó không
đơn giản
chỉ là vấn đề Palestine.
Tôi nghiện lưu vong chăng? Có thể lắm!” Tình trạng lưu vong, theo ông,
vừa ác
vừa hiền, vừa kéo ông ra khỏi nhà lại vừa nuôi dưỡng nghệ thuật của
ông. “Lưu
vong chẳng phải là một trong những nguồn suối của sáng tạo văn chương
trong
lịch sử đó sao? Kẻ nào sống hài hòa với xã hội của mình quá, với văn
hóa của
mình quá, với chính mình quá, không thể là một người sáng tạo. Và điều
đó sẽ
vẫn đúng ngay cho dù quê hương của chúng ta là vườn Địa Đàng chăng
nữa!”.
"He is a pessimistic
poet made melancholy by an intolerable political exile"
Đang từ bi quan chuyển thành buồn bã nhờ chút lưu vong chính trị không
làm sao chịu nổi!
Poets cannot live by sympathy alone. Thi sĩ chẳng chỉ sống trần bằng sự
thân ái. Một nhà thơ như Darwish có thừa bản lãnh để tạo ra những hiệu
quả không dựa vào tiểu sử, gốc gác.
Gấu
có nhớ nhà không?
"He is a pessimistic
poet made melancholy by an intolerable political exile"
Poets
cannot live by sympathy alone.
TLS
viết về nhà thơ vừa mới mất, Mahmoud Darwish
*
Vừa
nhận được Lần Cuối Sài Gòn
trưa nay. Đọc trên chuyến xe lửa từ nhà trở lại sở. Đọc thích thú. Đọc
chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có lẽ những thành
phố anh đang gợi lại đã vĩnh viễn ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một chiếc
bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện tại. Chữ
gợi lại chập chùng những bóng. Những người đã từng có mặt. Những chỗ
ngồi. Những góc đường. Những tàng cây.
Mới cách đây vài
hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và tập Duino Elegies, vẫn còn
bần thần, vì nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn cái gì, là lập tức
cái ấy đã là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là Lần Cuối. Chúng ta
tới đây, như để có mặt, một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi
qua đi.
Đọc mới xong phần đầu của bút ký,
và thơ, đã đầy cả Sài Gòn của một thời kỳ kỳ lạ, tan hoang, lãng mạn,
đổ vỡ, và bi tráng của nó.
Cám ơn anh đã gửi
sách. Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống con nước Thị Nghè,
trưa có mây - hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng xa xa
Thủ Đức].
Vài
hàng viết gấp kẻo anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ
đọc tiếp Lần Cuối tối nay. Anh vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
[Thư
thân hữu, 1998]
TQ
Nhớ
Bùn
"Sao
không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi
không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt.
Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến
điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm
hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê
Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng
Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về.
Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em
đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang
chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn
giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng
đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ,
nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn
thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như
những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp,
trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong
mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của
tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Lần Cuối
Sài Gòn
*
Sóc Trăng, cái tên thiệt là
ngộ. Sóc là làng, bản, thôn... theo tiếng Khờ-me (ở đây người
ta thường gọi là tiếng Miên) là điều dễ hiểu. Nhưng còn Trăng
thì sao? Có phải là con trăng trong tiếng Việt hay là mang một nghĩa
nào khác của tiếng Khờ-me? Ðiều này tôi chưa kịp hỏi, nhưng được biết ở
đây có trên 30% là người Việt gốc Khờ-me, và cũng có rất nhiều người
Hoa lập nghiệp đã từ bao nhiêu đời, nên nhiều người Sóc Trăng nói được
cả ba ngôn ngữ Việt, Miên và Tiều.
Nam Đan: Cười cho hết hàm răng
*
Sóc Trăng ư? Khánh Hưng? Ba Xuyên?
Nơi thằng em nằm xuống.
*
Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một
người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập
gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài)
ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những
năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải
ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi
còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là
với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói,
như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi
châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào
nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi
lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng
này.
Trở lại Ba Xuyên khi
được tin đứa em trai chết.
Tử
trận.
Mộ Tuyết
*
V/v
Mộ Tuyết
Quân bất kiến cao đường minh kính...
Chiêu như thanh ty mộ thành tuyết
Khi Nguyễn Đông Ngạc làm Hai muơi năm văn học Miền Nam, còn
có cái tên Những truyện ngắn hay
nhất của quê hương chúng ta, Gấu chọn truyện này, một phần để
vinh danh sư phụ Faulkner [văn phong của truyện ngắn là từ Asalom, Absalom!]
Như sợ không ai nhận ra, Gấu bệ luôn tên sư phụ vô, cho chắc ăn:
Khi anh
định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã yêu
thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái),
và như một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và
ngưỡng mộ (W. Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút
nợ, hay để mua cho vợ anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi
giầy, đôi dép cho hai đứa nhỏ, chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh
viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến văn chương,
và cũng chẳng liên quan gì tới những nỗi đau khổ mà gia đình anh đã
trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh thêm chút can đảm để bỏ
một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà hàng, quán nước
(cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ quyến
rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết
bết, chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về
những gì thật nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về
đời sống, cái chết, chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm
thường giản dị, và đem tập bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
*
Và nhờ cuốn sách, tấm hình chụp Gấu đứng ở Sở Thú Sài Gòn, và tí tiểu
sử, Gấu qua được cửa ải thanh lọc.
Khi đó, có một bà đang tập tành làm nhà văn, Gấu còn nhớ tên, sau đậu
thanh lọc, qua Úc, rất mê văn Nguyễn Ngọc Ngạn, nhờ Gấu giới thiệu với
ông, và tờ Làng Văn ở Canada.
Bà có mượn, đọc, chê: Viết về đứa em trai tử trận mà không có một dòng
xót thương, không một giọt nước mắt.
Cũng góp mặt trong tập truyện, TTT chọn Dọc Đường. Càng về sau này càng
thấy, đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất của ông.
Gấu cũng nghĩ như thế, về Mộ Tuyết. NQT
Gấu, nhà
văn
Nhiều
khi tí tiểu sử trở thành bùa cứu mạng!
Trước
1975, Gấu có một cái hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử
độc nhất, như sau đây. Không thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu
khổ cứu nạn, khi đi thanh lọc, được nhà nước tạm dung xếp vào thành
phần tị nạn chính trị, thay vì di dân kinh tế. Nhờ vậy mà sau đó, được
phái đoàn Canada
chấp nhận.
Trích Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập, xb
trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi 1938, theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh
16.8.1937
Theo
Gấu đoán, sau khi gieo
quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do
nỗi buồn
lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh
chạy về
xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm
hồn’.
Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát
chết,
những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn
VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến
tranh bằng cách đẩy thằng
khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một
nỗi “chết
trong tâm hồn” khác…
Thú
thực Gấu chưa từng thấy một
anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng
chưa từng có một bài viết,
bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về
châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm
thế.
Gấu
này đã từng về "bắt tay với
VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp
như ngày
anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói
rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa
CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng
tởm.
Gấu
tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!
*
Khi
VC gọi Miền Nam trước
1975 phồn vinh giả tạo, hẳn không ngờ, họ tiên tri ra được số phận cả
nước, vào
những ngày như hiện nay.
Nhưng,
huy hoàng, mặt nổi
của Sài Gòn làm Gấu nhớ những ngày 1954, khi mới tới thành phố, ở trong
con hẻm
lầy lội Đội Có, Phú Nhuận. Những con hẻm như thế, theo với đà chiến
tranh, với
quân đội Đồng Minh đổ vào Miền Nam, cứ ngày một đẹp đẽ thêm lên, nào
tráng xi măng, nào mở rãnh,
nào thay mái lá bằng mái tôn, nhưng con trai trong xóm cứ mất dần: Họ
đi lính, họ
tử trận. Cái sự giầu sang của đất nước bây giờ so với hồi đó, thì đúng
như Bác
Hồ nói, bằng 10 lần ngày trước, nhưng khủng khiếp thay, phần đạo đức,
phần luơng
tâm, không bằng 1/10.
Thời
gian những người như NMG
bỏ nước ra đi, đất nước cũng khốn nạn, nhưng đâu có bằng lúc ông trở
về. Liệu ông có nhận ra điều này?
Ai
cũng trở về, trừ một số rất
ít, nhất định không về. Tuy về, họ đâu có sung sướng gì, nhưng thái độ
đổi trắng
thay đen, liều chết vượt biển, chọn lưu vong và tự do, bây giờ biến
thành "di cư",
thì thê thảm quá.
Viết
như thế, thì thú thực,
không thể nào hiểu được. NQT
1958. Học xong Trung
học tôi
thi vô Trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập sau một năm lân
la làm
quen cái không khí đầy nao nức của tương lai như đang giục giã ở ngay
đầu ngã
tư của cuộc đời, ở đại giảng đường Đại Học Khoa Học. Bạn thử tưởng
tượng một
học sinh nghèo, sống chui rúc ở cuối con hẻm Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám
người
nghèo khổ bám quanh thành phố, khi chiến tranh chưa dồn dập đem những
tiện nghi
đến tận giường ngủ, xó bếp, rồi lấy đi một số người thân, quanh năm chỉ
biết
xài đèn dầu, uống nước giếng. Đám thanh niên, ngoài những lúc tự an ủi
lẫn nhau
bằng những mối tình tưởng tượng, bằng những tiếng hát nhái theo giọng
Út Trà Ôn,
Trần Văn Trạch quanh cây đàn ghi ta bên cạnh giếng nước, vào những lúc
con xóm
sau một ngày mệt lả, mặc tình cho bóng đêm và muỗi đói hành hạ; buổi
sáng chỉ
còn cách kéo nhau ra mấy dẫy nhà lụp xụp, mặc tình ngắm nghía mấy cô
gái họ vẫn
thường trầm trồ, mỗi lần thoáng thấy bóng. Các cô lúc này xắn quần cao,
thoăn
thoắt giữa đám rau muống xanh um phủ kín mấy vũng nước đen ngòm, nguồn
lợi thứ
nhì sau mấy ao cá, một nơi chốn hẹn hò khác nữa của các cô cậu choai
choai, và
của đám con nít; bỗng một ngày đẹp trời, thấy như Alice lạc vào xứ thần
tiên,
lạc vào trường Đại Học Khoa Học.
Phở hồi đó ba đồng
một tô.
Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc
nhớ một
hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng
Sản, thảm
hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt.
Lần
Cuối Sài Gòn
|